Tuesday, May 7, 2013

Lời bình của Hoài Thanh về bài thơ Chia tay trong đêm mùa hạ của Trần Thị Nhơn


Một bài thơ dễ yêu
 
 
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh, tác giả cuốn sách nổi tiếng Thi nhân Việt Nam, đã từng viết bài khen ngợi bài thơ Chia tay trong đêm mùa hạ của Trần Thị Nhơn sau khi ông đọc bài thơ này trên báo Văn nghệ của Hội nhà văn Việt Nam số ra ngày 7-3-1981.

 

 

 
Tình yêu cũng như mọi thứ ở đời có thật và có giả. Có những bài cũng gọi là thơ tình mà đọc đến ta thấy ngượng quá đi. Bởi đó không phải là tình thật, nó chỉ là một thứ trò chơi trống bỏi.

 

Trái lại có  khi tình thật mà sai đúng lại mơ hồ. Cùng trong một số báo, liền bên trên bài thơ Trần Thị Nhơn có những lời của một người mẹ trẻ dặn con:

 

Tình yêu sẽ sẽ chờ con sau tháng năm kia

Khi đón gặp xin con đừng hờ hững

Chỉ một chút yếu hèn toan tính

Con có thể lạc đi hạnh phúc suốt đời mình

 

Tôi muốn nói với người mẹ trẻ: Lời khuyên của chị rất có thể trở nên nguy hiểm.

 

Bởi tiếng gọi của tình yêu có khi đúng có khi sai, không phải bao giờ cũng đúng.

 

Bài thơ Trần Thị Nhơn đáng yêu trước hết là vì mối tình trong đó vừa đúng lại vừa có thật. Qua hai câu mở đầu ta sẽ thấy một sự kín đáo, dè dặt, đáng yêu:

 

Một tối mùa hè anh gõ cửa phòng em

Rồi đứng đợi dưới hàng cây sẫm tối.

 

Đến hai câu 3, 4 thì đúng là tình yêu rồi và cũng đúng là tình yêu đầu trong đời cô gái:

 

Em mở cửa lá rèm bay bối rối

Lần đầu tiên hò hẹn trong đời.

 

Kế đó họ đi phố với nhau. Trong khi đi không chú ý đến người, không chú ý đến xe, điều đó cũng tất nhiên thôi. Nhưng một chi tiết bất ngờ là họ cũng không nghe tiếng lá cây xào xạc là thứ tiếng sâu kín họ vẫn thường nghe:

 

Đi giữa phố đông em nghỡ phố không người

Không tiếng xe đi , không xạc xào tiếng lá.

 

Lần này họ không nghe là bởi tâm trí họ đang dồn vào một thứ tiếng sâu kín khác thiết tha hơn:

 

Chỉ có tiếng những ngón tay anh thủ thỉ

Với bàn tay em – chiếc lá non mềm.

 

Những chiếc lá kia không xào xạc là để đưa đến chiếc lá này non mềm: Một sáng tạo bất ngờ mà đúng chỗ.

 

Mỗi câu chuyện yêu đương thường diễn ra trong một khung cảnh. Khi Kim Kiều thề thốt với nhau, trên trời có vầng trăng rất sáng:

 

Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng, một lời song song.

 

Đêm nay trái lại không có trăng. Nhưng khung cảnh riêng vẫn có:

 

Cây phượng đứng lá cành chao trước gió

Trong đêm tối thoáng một chùm hoa đỏ.

 

Bên chùm hoa ấy họ đã tiễn đưa nhau:

 

Và những lời từ biệt cháy trên môi.

 

Có thể hiểu là những lời từ biệt nóng bỏng yêu thương. Nhưng giá có hiểu: họ vừa hôn nhau vừa nói những lời từ biệt thì tình yêu ở đây vẫn cứ giữ nguyên tính nồng nàn và thanh khiết.

 

Cô gái bỗng có chút bàng hoàng. Cô láy lại hai lần hai chữ “ngày mai”:

 

Ngày mai, ngày mai anh đã đi rồi

Anh đến chốn biên thùy còn âm vang tiếng súng.

 

Làm sao có thể không lo lắng cho người sắp đi đến nơi có tiếng súng. Nhưng giữa một bên là hạnh phúc lứa đôi, một bên là nghĩa vụ, thái độ của họ vốn dứt khoát từ lâu. Nó là thái độ của hai anh chị trong “cuộc chia ly màu đỏ” ( Nguyễn Mỹ) và cũng là thái độ của hàng trăm nghìn thanh niên khác trên đất nước Việt Nam:

 

Khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau

( Nguễn Mỹ)

 

Thực tế khắc nghiệt trên mảnh đất nhiều thiên tai địch họa, họ chấp nhận nó. Nhưng cái việc đòi hỏi một nghị lực phi thường họ vẫn làm một cách tự nhiên và bình dị. Trong các cuộc tiễn đưa không hề có chút gì bi lụy, cũng không hề có những giọng nói lên gân, những dáng điệu iêng hùng. Sự bình dị ấy chính là biểu hiện của một sức mạnh vô biên.Vả chăng vấn đề cũng không hẳn là phải từ chối hạnh phúc lứa đôi. Vấn đề là phải biết đợi chờ và tin tưởng. Cùng với lòng tin vào chiến thắng, chúng ta có sức động viên rất lớn của của lòng thủy chung ở hậu phương trên cơ sở truyền thống gừng cay muối mặn từ xưa. Trong bài Đợi anh về của Ximônốp, anh không chết, anh trở về với em:

 

Chỉ vì không ai người

Biết như em chờ đợi

( Lời dịch của Tố Hữu)

 

Cũng trên tinh thần ấy nhưng có phần tự nhiên và bình dị, ở đây chùm hoa thoáng thấy hôm tiễn đưa đã trở thành:

 

Một chùm hoa đỏ chói sắc mong chờ

 

Không những nó sáng hơn, tươi hơn mà màu đỏ của nó từ chỗ là màu của hoa đã trở thành sắc chờ mong đỏ chói do sức biến hóa của lời thơ ( tôi thích nói sắc chờ mong hơn nói sắc mong chờ).

 

Kể đến đây bài thơ có thể dừng được rồi. Nhưng ta còn được đọc thêm một đoạn láy lại một số ý của đoạn trên:

 

Một tối mùa hè anh gõ cửa phòng em

Rồi đứng đợi dưới hàng cây sẫm tối.

 

đưa đến hai câu:

 

Em trở lại phòng em cánh cử khép hờ

Khung cửa sáng dưới lùm cây sẫm tối

 

Tình tứ và tinh nghịch biết bao cánh cửa khép hờ cùng với khung cửa sáng rọi mãi vào bóng tối hôm xưa!

 

Đi giữa phố đông em nghỡ phố không người

Không tiếng xe đi , không xạc xào tiếng lá

Cây phượng đứng lá cành chao trước gió

 

đưa đến:  

 

Cơn gió thoảng ngọn đèn đường chao vội

Phố không người hàng cây hát miên man

 

Hàng cây hôm xưa không xạc xào tiếng lá nay lại chuyển thành hàng cây hát miên man bề ngoài có vẻ trái ngược nhau nhưng thực ra đều nói chung một chuyện, đều nói một mối tình kín đáo, chốc chốc lại như muốn đùa với mình một tí. Phần tinh nghịch trong tình cảm là một nét đặc trưng của bài thơ này. Nói chung là tinh nghịch có mức độ không lấn át tình cảm nên bài thơ vẫn giữ được cái cốt cách của đáng yêu. Nhưng cũng do có phần tinh nghịch mà không cảm thấy hết những vui vui buồn, phấn đấu của người trong cuộc. So với bài thơ Nguyễn Mỹ thì sẽ rõ, cũng là cuộc chia ly màu đỏ mà cái nhìn của Nguyễn Mỹ nghiêm trang hơn – đúng là cái nhìn của người trong cuộc nên nhìn thấy sâu hơn và bài thơ của Nguyễn Mỹ nhờ thế đã vươn tới một tầm cao cần thiết và vẫn giữ  nguyên  vị trí ấy trong suốt mười mấy năm. Tuy vậy, hàng ngày đọc thơ trên các báo mà gặp được một bài như bài này của Trần Thị Nhơn vẫn phải xem là một điều may mắn lớn.

 

Hoài Thanh

 

(Bài đã đăng trên báo Văn nghệ số 24 ( 914) ra ngày 13-6-1981), và Hoài Thanh toàn tập).