Friday, August 14, 2020

Cuộc hành trình tới các di sản của Hàn Quốc

Cuộc hành trình tới các di sản của Hàn Quốc Cách đây hơn 10 năm, khi dự một cuộc hội thảo ở Seoul, đồng nghiệp Hàn Quốc dẫn chúng tôi thăm các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Nhờ chuyến đi, tôi có cơ hội hiểu thêm về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa... tại xứ sở này. Địa danh lịch sử đầu tiên mà các bạn Hàn Quốc dẫn chúng tôi đến là cố đô Gyeongju, nơi có thời là thủ đô của vương quốc cổ Shilla. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, Gyeongju giờ đây là một thành phố với hơn 260.000 dân, cách thủ đô Seoul gần 400 km, không xa thành phố Ulsan, nơi tọa lạc nhà máy chế tạo ôtô thuộc hàng lớn nhất thế giới của tập đoàn Hyundai. Đồng thời, nơi đây cũng khá gần thành phố cảng Pohang, nơi có nhà máy cán thép khổng lồ của Công ty thép POSCO. Sau khi thăm nhà máy chế tạo ôtô của Hyundai ở Ulsan và nhà máy cán thép của POSCO ở Pohang, chúng tôi lên đường tới Gyeongju. Điểm đến đầu tiên của chuyến du hành tới các di tích lịch sử thuộc cố đô Gyeongju là khu lăng mộ của vua chúa vương quốc Shilla. Trước mắt chúng tôi là những ngôi mộ đất khổng lồ hình vòm, phủ cỏ xanh, có đường kính vài chục mét, bên trong chôn hài cốt của các vị vua chúa và hoàng tộc thời Shilla. Người ta từng khai quật các nấm mồ này để lấy mẫu vật nghiên cứu, sau đó chôn lại như cũ. Khi nhìn các nấm mộ đất như những quả đồi mọc đầy cỏ xanh nằm im lìm trong cái nắng đầu thu, trong đầu tôi như hiện ra quá khứ huy hoàng của vương quốc Shilla. Triều đại này từng nổi lên thành một thế lực mạnh, thống nhất được gần như toàn bộ bán đảo Triều Tiên, đạt tới đỉnh cao quyền lực vào phồn vinh vào giữa thế kỷ thứ 8 sau công nguyên, sau đó suy yếu dần. Cuối cùng, năm 935, vua Shilla đành phải trao lại quyền bính cho vua Taejo, người lập ra vương quốc mới Koryo. Nhờ một loạt di tích như lăng mộ vua chúa, đền chùa và thành quách đổ nát, Gyeongju đã trở thành địa điểm du lịch hàng đầu Hàn Quốc, mỗi năm thu hút tới hơn 9 triệu du khách trong nước và quốc tế. Chúng tôi bắt đầu chuyến hành trình di sản bằng cách thăm bảo tàng quốc gia Gyeongiu. Tại đây, người ta trưng bày các món đồ tạo tác thời Shilla, thu được từ các cuộc khai quật các ngôi mộ ở Gyeongju và các khu vực lân cận, trong đó có cả một hiện vật đặc biệt quý giá, đó là chiếc vương miện bằng vàng và vô số châu báu khác. Ở phía bên ngoài tòa nhà bảo tàng có đặt một chiếc chuông lớn, bằng đồng, có tên tiếng Anh là Emille Bell. Đây là cái chuông lớn nhất Hàn Quốc, đúc năm 771. Nghe nói, nếu chiếc chuông khổng lồ này được đánh lên trong những đêm trời quang, mây tạnh thì âm vang của nó có thể lan xa tới 40 dặm. Người Hàn Quốc rất tự hào về quá khứ của dân tộc mình và họ rất có ý thức trong nỗ lực truyền lại cho các thế hệ con cháu đời sau niềm tự hào đó. Hôm đến thăm bảo tàng quốc gia Gyeongju, chúng tôi gặp một nhóm học sinh tiểu học đang có giờ ngoại khóa. Nhìn những đứa trẻ bảy, tám tuổi, khỏe mạnh, má đỏ bồ quân, vai khoác những chiếc ba lô nhỏ xíu, tay cầm cuốn sổ tí hon và cây bút chì, đang hí hoáy ghi chép, tôi rất khâm phục cách dạy sử của các thầy cô giáo Hàn Quốc. Còn gì thú vị hơn đối với các em mỗi khi học về một triều đại hay một vị vua nào đó, mà lại được chứng kiến tận mắt chiếc vương miện bằng vàng và các thứ đồ đạc khác của nhà vua! Chắc chắn các kiến thức lịch sử cùng với kỷ niệm của chuyến tham quan sẽ được các em ghi nhớ mãi. Sau khi rời bảo tàng quốc gia Gyeongju, chúng tôi lên đường tới thăm ngôi chùa Bulguksa, một kiệt tác kiến trúc của Hàn Quốc đã được Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đưa vào danh sách Di sản văn hóa thế giới hồi năm 1995. Đây là ngôi chùa làm bằng đá, có nhiều đường nét hài hòa, được xây dựng năm 535 và mở rộng thêm vào năm 751. Trải qua các biến động của lịch sử, có thời Bulguksa bị phá hủy gần như hoàn toàn. Mãi đến cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970, ngôi chùa mới được phục chế lại với vẻ lộng lẫy như ngày hôm nay. Nghe nói, toàn bộ các cột đá của ngôi chùa là nguyên gốc. Theo lời người hướng dẫn viên du lịch thì Bulguksa là một trong những ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng ở Hàn Quốc. Rất nhiều người dân nước này đã không ngại đường xá xa xôi để tới đây cầu nguyện. Hôm chúng tôi đến thăm Bulguksa, trong đền có ba vị sư đang tụng kinh gõ mõ, cạnh họ là vài người hành hương đang khấn vái. Tôi để ý đến một phụ nữ Hàn Quốc, dáng vẻ quý phái, đang cần mẫn cầu nguyện. Cái cách người đàn bà này khấn vái khá đặc biệt. Chị ta nằm phủ phục xuống tấm thảm trước mặt, sau đó đứng lên, rồi lại nằm phủ phục xuống thảm, cứ thế, lặp đi lặp lại hàng nghìn lần. Sở dĩ tôi đoán “hàng nghìn lần” là vì sau khi đã thăm viếng hết các công trình kiến trúc rải rác xung quanh ngôi chùa Bulguksa, khoảng một tiếng đồng hồ sau, quay trở lại chúng tôi vẫn thấy người phụ nữ tiếp tục khấn vái. Tôi chợt nghĩ, nếu Đức Phật cũng có trái tim dễ mủi lòng như con người, chắc Ngài sẽ đáp ứng nguyện vọng của chị. Rời Gyeongju, chúng tôi trở về thủ đô Seoul để hôm sau thăm cung điện Deoksugung. Cung điện này nằm ở trung tâm Seoul, gần tòa Thị chính, được bao bọc bởi một bức tường, cạnh đó là các dãy phố với lòng đường lát bằng đá cục mài nhẵn. Xem lời giới thiệu, tôi được biết, cung điện Deoksugung được vua Taejo, vị vua đầu tiên của triều đại Joseon xây dựng năm 1394. Sau đó nó được các đời vua kế vị mở rộng thêm. Năm 1553, cung điện bị cháy rụi do một trận hỏa hoạn lớn, nhưng một năm nó sau đó nó lại được xây dựng lại. Trong thời gian Nhật Bản xâm chiến Hàn Quốc, từ năm 1592 đến năm 1598, cung điện Deoksugung bị cháy một lần nữa và lại được trùng tu vào năm 1867, trở nên rộng lớn và hoành tráng hơn. Trong thời kỳ Nhật Bản xâm chiếm bán đảo Triều Tiên từ năm 1910 đến 1945, một số công trình kiến trúc trong cung cung điện Deoksugung bị tàn phá. Bắt đầu từ năm 1989, Chính phủ Hàn Quốc tiến hành chương trình tái tạo lại các cấu trúc bị phá hủy và sau rất nhiều nỗ lực của các chuyên gia phục chế, cung Deoksugung có được vẻ đẹp huy hoàng như ngày hôm nay. Chặng cuối cùng của cuộc hành trình khám phá các di sản Hàn Quốc của chúng tôi là bảo tàng quốc gia ở Seoul. Đây là một bảo tàng lớn, thu hút rất nhiều khách tham quan. Số lượng mẫu vật trưng bày tại đây nhiều đến mức khiến chúng tôi choáng ngợp. Rất tiếc, vì ít thời gian nên chúng tôi không thể xem hết các mẫu vật và cũng không thể lĩnh hội hết chiều sâu lịch sử cũng như các thành tựu văn hóa, nghệ thuật và khoa học kỹ thuật của người Hàn Quốc. Tại bảo tàng quốc gia Seoul, chúng tôi lại gặp một đoàn học sinh đang có giờ ngoại khóa, nhưng lần này là học sinh trung học chứ không phải tiểu học. Nhìn các cô cậu thanh, thiếu niên ở tuổi mới lớn, vẻ mặt nghiêm túc, chăm chú xem xét các mẫu vật và ghi chép tỉ mỉ những gì mình vừa nhận biết vào một cuốn sổ, tôi đoán chắc các em rất tự hào về quá khứ của cha ông mình và, đối với các em, môn sử chắc là môn học hấp dẫn. Dân tộc Hàn có quá trình lịch sử bi tráng. Họ đã từng phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh, cả nội chiến lẫn chống ngoại xâm, đã từng bị chia cắt, sau đó thống nhất và cuối cùng lại bị chia cắt. Để có được nền hòa bình và các thành tựu về kinh tế và khoa học như hôm nay, người Hàn đã phải đổ rất nhiều máu, mồ hôi và nước mắt. Thực ra, còn một di sản nữa mà chúng tôi đã tiếp cận được trong một tuần lễ sống ở Hàn Quốc, đó là phong cách sống và nền văn hóa đặc sắc của người Hàn. Chính di sản này đã làm nên bản sắc Hàn Quốc. Sau này, khi đã rời Hàn Quốc, tôi vẫn còn nhớ mãi cảm giác thanh bình khi ở bên trong một ngôi nhà nông thôn truyền thống, ăn bữa cơm giản dị trong bầu không khí thân tình, ấm áp được tạo ra bởi lòng hiếu khách của người Hàn và cả bởi hơi ấm tỏa ra từ hệ thống sưởi đối lưu đặc biệt dưới sàn các ngôi nhà của họ. Mùi vị đặc trưng của các món ẩm thực, đặc biệt là món kim chi và món rong biển khô, cũng khiến tôi không thể nào quên. Nghệ thuật dân gian cũng là một di sản quý của người Hàn Quốc. Tôi vẫn còn nhớ mình đã cảm thấy xúc động như thế nào khi xem màn trình diễn múa trống của các vũ công tại nhà hát dân tộc Seoul. Trong màn múa trống ấy, các cô gái xinh đẹp, tóc búi cao, mặc hanbok, dường như đã làm cho bầu không khí của nhà hát nóng lên bởi các động tác đánh trống dồn dập, điêu luyện. Cảm xúc của chúng tôi lên đến cao trào khi thưởng thức bài hát Arirang, do một một nữ ca sĩ biểu diễn. Tôi dường như đã xúc động đến lặng người đi khi nghe cô ca sĩ có giọng hát rất khỏe kết thúc bài hát. Arirang là bài hát Hàn Quốc hay nhất mà tôi được nghe. Mặc dù không biết tiếng Hàn nhưng nghe giai điệu réo rắt của nó và nhìn nét mặt đầy biểu cảm của người nữ ca sĩ. Tôi biết, nội dung của bài hát nói về cuộc tình trắc trở, nỗi mong mỏi, nhớ thương của người phụ nữ đối với người đàn ông mà cô yêu dấu. Bài hát mang tâm trạng u buồn, đau khổ, như thể được cất lên từ trái tim rớm máu. Một tuần lễ trôi nhanh. Mặc dù còn rất nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử của Hàn Quốc mà chúng tôi chưa tới thăm được, nhưng những gì đã trải nghiệm cũng đủ khiến tôi yêu mến và khâm phục dân tộc này. Buổi sáng ngày cuối cùng ở Hàn Quốc, trên chiếc máy bay vừa cất cánh khỏi sân bay Kimpo, tôi nhìn xuống bên dưới thấy dòng sông Hàn như một vệt xanh mờ uốn khúc giữa thành phố Seoul lấp lánh nắng, xa xa là núi non trùng điệp. Tạm biệt Seoul, tạm biệt Hàn Quốc. Cảm ơn những người bạn Hàn hiếu khách đã dành cho chúng tôi một cuộc hành trình thú vị và bổ ích. Lương Duyên Tâm https://vnexpress.net/cuoc-hanh-trinh-toi-cac-di-san-cua-han-quoc-3031468.html

Bao nhiêu nước đã chảy dưới cầu Karluv

 Bao nhiêu nước đã chảy dưới cầu Karlův 


Từ ngày có phần mềm Street View tôi thường dùng nó để đi “đi thăm” những nơi mình đã từng sống hoặc từng đi qua để xem những nơi ấy thay đổi thế nào sau bao nhiêu năm xa cách. Tôi cũng đến những nơi tôi chưa từng tới bao giờ. Nơi tôi thường ghé thăm nhất là khu vực châu Âu, đặc biệt là Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia, trước đây là nước Tiệp Khắc, vì đó là đất nước  tôi từng du học thời tuổi trẻ. Hai nước này có bản đồ Street View rất chi tiết. Không chỉ các con đường quốc lộ, tỉnh lộ mà cả những con đường làng, thậm chí các con đường nhỏ băng qua các cánh đồng cũng có trên Street Views. 



Petřiny


Nơi tôi thường hay trở lại thăm thú nhất là khu vực Petřiny, nơi có kolej Větrník Jih, ký túc xá tôi đã sống suốt những năm học đại học ở Praha đầu thập niên 1970. Đây là khu giáp ranh giữa nội thành và ngoại thành, là nơi có ga đầu tiên của tàu điện số 1 và số 20. Petřiny giống như tất cả những khu đô thị mới ở Praha khác, có những dãy nhà cao tầng được xây dựng theo quy hoạch để sao cho về tổng thể có đủ không gian cho nhà ở, trường học, nhà trẻ, khu sinh hoạt cộng đồng, bệnh viện, siêu thị, nhà hàng, các con đường, các công viên, các bãi cỏ và cả các khu vườn trồng cây ăn quả. Ở Petřiny có rất nhiều khu vực chỉ để trồng cây xanh và để cỏ mọc nên rất thoáng mát. Tôi đặc biệt thích những khu vườn trồng táo, lê, anh đào và các bãi cỏ. Mùa xuân, hoa anh đào và hoa táo, hoa lê nở trắng một góc trời. Các bãi cỏ thì chi chít những bông hoa cải dại và cúc dại, Những ngày nắng, cỏ ở đây có mùi thơm rất quyến rũ. Người ta dùng máy xén cỏ cắt ngắn những đám cỏ dài, phơi khô, vun thành từng đống, rồi chuyển đi đâu không rõ. Cho đến tận giờ tôi vẫn còn nhớ mùi hương dịu ngọt của cỏ tươi phơi nắng ở Větrník. Mùi hương ấy làm tôi liên tưởng tới tuổi thơ của mình ở một làng quê thuộc tỉnh Thái Bình. Thuở ấy, bọn trẻ con cùng tuổi tôi thường đi tìm những nhánh cỏ mật, phơi cho chúng héo đi, bỏ vào túi áo, để thỉnh thoảng hít hà mùi thơm của nó. Buổi chiều, bọn sinh viên Việt Nam chúng tôi thường chơi bóng đá trên các bãi cỏ cạnh ký túc xá cho đến tối mịt. 

Petřiny, trường Karlova Univerzita có hai ký túc xá. Ký túc xá Větrník Jih dành cho nam và ký túc xá Větrník Sever dành cho nữ. Ban đầu khu này không có nhà ăn sinh viên. Những người lười nấu ăn thường phải đi ăn ở những nơi cách chỗ ở tới vài cây số. Sau này người ta xây thêm nhà ăn sinh viên, gọi là menza, nên mọi người không phải đi xa nữa. Nhìn lên bản đồ, tôi thấy giờ đây Větrník có một số thay đổi. Ký túc xá Větrník Jih bây giờ gọi là Kolej Hvezda. Còn ký túc xá Větrník Sever thì đổi tên thành Kolej Na Větrníku. Kolej Hvezda giờ có thêm 3 tòa nhà năm tầng xây nối với khu ngày xưa là nơi xem ti vi và đánh bóng bàn. Ngoài công trình đó, mọi thứ vẫn y nguyên như cũ. Màu sơn tường, các ô cửa kính, thậm chí cả màu rèm cửa vẫn chẳng khác gì ngày xưa. Trong những năm cuối của cuộc đời sinh viên ở Praha tôi ở tại một căn phòng có cửa sổ nhìn ra một cây bạch dương xanh tốt. Hồi đó ngọn cây bạch dương mới chỉ cao hơn tầng hai một chút. Đêm khuya, gió thổi tán lá bạch dương xào xạc, gợi cảm xúc rất khó tả. Nay thì cây bạch dương ấy đã thành cổ thụ rồi. Ngọn của nó đã vươn lên tới tầng năm. Nó cứ sống đời bạch dương như thế, mùa đông trụi lá, mùa hè tốt tươi, mặc kệ những biến cố chính trị long trời chuyển đất diễn ra ở Tiệp Khắc, mặc kệ các thế hệ sinh viên như chúng tôi đến rồi lại đi. 

Cạnh ký túc xá có một vườn cây ăn quả và một nghĩa trang nho nhỏ. Cái tên Větrník có lẽ khởi nguồn từ một cơ sở xay lúa mì chạy bằng sức gió. Không biết chủ sở hữu vườn cây này là ai mà tôi chẳng thấy họ thu hoạch bao giờ.  Dường như người ta trồng cây là để cho đẹp cảnh quan và để có quả cho chim ăn và khách bộ hành thưởng thức. Tôi đã từng nhiều lần thử nếm anh đào, táo và lê ở đây. Táo thì hơi chua nhưng anh đào và lê thì rất ngọt. Nghĩa trang nhỏ đã từ lâu người ta không chôn người chết nữa, nhưng tôi để ý thấy luôn có người thăm viếng và đặt hoa. Đi quá nghĩa trang một chút về phía con đường đi lên đồi Strahov là tu viện nam Brevnovsky. Trong một lần đi lang thang quanh các khu vực gần ký túc xá, tôi đã từng tìm cách vào thăm quan tu viện này vì thấy nó rất rộng lớn và có kiến trúc đẹp, nhưng tôi không vào được bên trong vì lúc đó nó đã được trưng dụng làm trụ sở của một cơ quan mà sau này tôi được biết đó là sở mật vụ, chuyên theo dõi những nhân vật bất đồng chính kiến thời chiến tranh lạnh. Bây giờ thì người ta đã mở cửa tu viện Brevnovsky cho khách du lịch vào tham quan rồi. Đó là một trong số rất nhiều danh thắng ở Praha.

Větrník mùa nào cũng đẹp. Mùa đông tuyết phủ trắng xóa các bãi cỏ và các lối đi. Thật thú vị khi ngồi trong các căn phòng có lò sưởi ấm áp, nhấm nháp ly trà nóng, nhìn ra ngoài trời lất phất tuyết rơi, tai nghe văng vẳng những bài hát của ca sĩ huyền thoại Karel Gott. Mùa hè, nắng vàng trải trên các con đường và các bãi cỏ nhưng trong bóng dâm không khí vẫn mát mẻ lạ thường. Buổi chiều, nắng chưa tắt nhưng gió đã lộng. Một bầu không khí thoáng đãng tràn ngập mùi hương cỏ cây bao phủ cả vùng. Thật là một nơi lý tưởng để sống. Không chỉ Petriny, Praha có hàng trăm nơi như thế. Đó là những nơi tận cùng của các chuyến tàu điện. Nơi giáp ranh giữa nội và ngoại thành. Nơi nhà cửa chưa nhiều và đất đai còn rộng để dành cho cây cỏ. Người ta đã cố giữ vững quy hoạch ban đầu của những khu đô thị này, vì thế sau 50 năm, tại các khu này, dù đất trống rất nhiều nhưng nhà xây thêm rất ít và độ cao của những tòa nhà mới xây cũng không cao hơn độ cao của những ngôi nhà cũ, chỉ khoảng hơn chục tầng là cùng.




Quảng trường Vaclav


Thời còn là sinh viên, hầu như ngày nào chúng tôi cũng đi qua quảng trường Vaclav, theo lộ trình của tàu điện số 20 và số 1 để đến các giảng đường của khoa Toán Lý. Václav là quảng trường sầm uất nhất Praha. Nơi đây, vào mùa hè, khách du lịch đông hơn cả người bản xứ. Quảng trường có nhiều nhà hàng, khách sạn, cửa hàng thời trang, hiệu sách, rạp chiếu phim. Tôi thích rạp chiếu phim nonsntop và đã đến đây xem vài lần. Mỗi ngày rạp chỉ chiếu một bộ phim và nó cứ chiếu đi chiếu lại mãi. Vé thì không có số. Khán giả vào rạp lúc nào cũng được, cứ thấy chỗ nào trống thì ngồi, và xem bao lâu cũng được. Thậm chí nếu buồn ngủ thì vào đấy ngủ cũng không sao. Rạp chủ yếu phục vụ cho khách đợi tàu vì ga xe lửa chính của Praha ở ngay gần đó. Lũ sinh viên chúng tôi mỗi khi phải chờ đến tiết học mới cũng thỉnh thoảng vào xem vì vé rất rẻ. Ở một đầu của quảng trường có Viện bảo tàng quốc gia Séc, cạnh đấy có bức tượng thánh Vaclav ngồi trên lưng ngựa. Sau khi anh sinh viên của trường Karlova Univerzita Jan Palach tự thiêu vào ngày 16-1-1969 để phản đối quân đội Liên Xô chiếm đóng Tiệp Khắc, tại bậc thềm nhà bảo tàng quốc gia Séc có thêm một biểu tượng kỷ niệm nữa, nhỏ hơn, nhằm ghi nhớ hành động của anh. Đó là cây thánh giá bằng đồng nằm trồi lên trên đá lát vỉa hè. Thực ra Jan Palach không phải là người duy nhất tự thiêu ở đó. Tròn một tháng sau đám tang của Palach, một người Séc khác là Jan Jajic, cũng đã tự thiêu ở đúng vị trí này. Báo chí Séc không hề đưa tin về những cái chết của họ, vì thế, mặc dù lúc đó chúng tôi sống ở Praha nhưng không ai biết về chuyện các vụ tự thiêu, mãi sau này, khi đã về nước tôi mới biết. Ở đầu kia của quảng trường là Mustek, nơi đặc biệt sầm uất vì có lối đi vào khu quảng trường Thành Cổ. Vào mùa hè khách du lịch tập trung ở khu này rất đông. Người ta đợi lúc bắt đầu của một giờ mới để quan sát chiếc đồng hồ với các vị thần, nom như những con rối, lần lượt đi qua hai chiếc cửa sổ, quay mặt về phía khán giả như để chào mọi người, rồi sau đó lại đi vào bên trong. Quảng trường Vaclav là nơi thường diễn ra các cuộc biểu dương lực lượng của các phe phái, cả phe ủng hộ nhà cầm quyền lẫn phe chống đối. Thời chiến tranh lạnh, các ngày lễ lao động 1-5, Mustek là nơi các vị lãnh đạo Tiệp Khắc đứng trên lễ đài tươi cười vẫy tay chào đoàn người biểu tình ủng hộ chế độ đương thời. Đoàn học sinh Việt Nam năm nào cũng có mặt trong dòng người đó. Ai cũng hồ hởi bày tỏ niềm vui được góp phần vào không khí vui tươi của ngày lễ lao động mà không hề biết rằng những đợt sóng ngầm đòi tự do đang âm thầm chuyển động trong lòng xã hội Tiệp Khắc. Tháng 8-1969, một cuộc biểu tình khổng lồ với sự tham gia của gần một triệu người nhằm phản đối quân đội nước ngoài chiếm đóng Tiệp Khắc bùng nổ.  Hồi đó, mặc dù không có ý định bày tỏ chính kiến nhưng chúng tôi vì tò mò cũng có mặt trong đám đông với tư cách là những người đi xem sự kiện. Chúng tôi cứ tưởng biểu tình ôn hòa thì không có đàn áp, nhưng chúng tôi đã lầm, các nhà chức trách Tiệp Khắc hồi ấy đã đàn áp dã man những người biểu tình. Ban đầu họ kêu gọi mọi người giải tán, sau đó họ bắn lựu đạn cay làm chảy nước mắt, và cuối cùng, cho đội quân cảnh sát dùng dùi cui vụt thật lưc vào những người biểu tình. Rất nhiều người bị đánh đau, kể cả một người Việt Nam chúng tôi. Anh này giơ tay lên để bảo vệ đầu và vì thế ngón tay anh hứng trọn mấy cú vụt dùi cui như trời giáng của một viên cảnh sát. Vết thương ấy làm anh ấy đau đớn vài tuần mới lành. Cũng nhờ tham gia cuộc biểu tình mà chúng tôi biết lựu đạn cay có mùi vị như thế nào. Hóa ra  nó cay nồng mùi tỏi, mùi ớt, mùi hạt tiêu và mùi mù tạt. Không ai có thể chịu được cái mùi đó dù chỉ vài phút. Chỉ nếm mùi lựu đạn cay có vài chục giây thôi mà chúng tôi ai cũng nước mắt, nước mũi giàn giụa, cổ họng thì bỏng rát, có người sau đó bị viêm họng hàng tuần liền. Trong cuộc cách mạng nhung năm 1989. Quảng trường Vaclav cũng trở thành trung tâm của những cuộc biểu tình. Quảng trường này thật sự là cái hàn thử biểu đo nhiệt độ đời sống chính trị ở Cộng hòa Séc. Nhìn trên bản đồ Google, sau hơn 50 năm, quảng trường Vaclav hầu như không có gì thay đổi ngoài việc các tòa nhà được tân trang lại bên ngoài cho bóng bẩy hơn. Không thấy tòa nhà nào được xây thêm. Chỉ thấy các đường ray tàu điện đã được bóc đi. Bây giờ chỉ còn các chuyến tàu điện đi ngang qua quảng trường chứ không còn các chuyến tàu điện chạy dọc quảng trường như xưa. 



Cầu Karlův 


Praha có nhiều cây cầu. Nhưng đẹp nhất và nổi tiếng nhất là cầu Karlův (Karlův most) . Hầu như ai có dịp đến Praha cũng đều đi qua cây cầu này. Nó là một cây cầu cổ, được xây dựng từ thế kỷ 14 và hoàn thành vào đầu thế kỷ 15, là một trong những cây cầu đá cổ nhất châu Âu. Hai bên lan can cầu có những bức tượng, được điêu khắc công phu theo phong cách nghệ thuật ba rốc. Cầu chỉ cho người đi bộ đi qua nhưng luôn tấp nập từ sáng sớm đến tối mịt. Có nhiều ban nhạc đường phố chơi nhạc phục vụ khách bộ hành. Thỉnh thoảng có người bỏ tiền xu vào những cái mũ hoặc những cái khay trước mặt họ. Đây cũng là nơi các họa sĩ truyền thần vẽ tranh bán cho khách du lịch. Chỉ cần vài chục phút là họ hoàn thành một bức chân dung. Từ ngày có facebook, ai đến Praha cũng muốn có một bức ảnh tự sướng trên cây cầu này để khoe với thiên hạ rằng mình đang có mặt ở trái tim châu Âu. Bao nhiêu nước đã chảy dưới cầu Karluv kể từ ngày chúng tôi rời Praha? Không ai có thể biết được. Cầu Karlův và những khu vực lân cận giờ đây vẫn y nguyên như lúc chúng tôi chia xa. Vài trăm năm nữa cảnh quan có lẽ cũng vẫn như vậy. Không ai có ý định làm cho nó khác đi vì như hiện nay cũng đã quá đẹp rồi. 



Řež


Řež là một cái làng nhỏ nằm bên bờ sông Vltava. Sở dĩ tôi biết đến nó vì Viện nghiên cứu hạt nhân Praha đặt ở đó. Tôi đã làm luận án tốt nghiệp hai năm ở viện này. Thực ra viện nghiên cứu hạt nhân chẳng có gì đáng nhớ. Cái tôi nhớ nhất là những chuyến tàu hỏa đầu máy hơi nước chạy bằng than từ Praha tới Řež. Những chuyến tàu hỏa bụi bặm, cổ lỗ không biết có từ khi nào nhưng rất đúng giờ, đều đặn đưa khách đến từng ga xép một. Řež là một trong những ga xép ấy. Quang cảnh hai bên đường tàu đẹp tuyệt vời, Con sông Vltava uốn lượn làm cho đường tàu cũng uốn lượn theo. Tàu đi khoảng 30 cây số thì đến Řež. Khách xuống Řež hầu hết là nhân viên của Viện nghiên cứu hạt nhân Praha. Họ làm cả ngày, tám tiếng, ở đây. Buổi trưa mọi người ăn ở nhà ăn của viện. Vì viện nằm trong một khu đất rất rộng nên giờ ăn trưa có xe buýt nội bộ đón nhân viên đi ăn, sau đó xe buýt lại đưa họ về từng phân viện. Hóa ra nơi đây cũng đã từng có một người Việt Nam làm việc. Hôm đầu tiên thày giáo hướng dẫn làm luận án hỏi tôi có biết Phạm Khắc Chi không. Thầy nói anh Chi vừa đến viện khoe ảnh cưới vợ. Thời điểm đó anh Chi đã bảo vệ xong luận án và đã về nước rồi. Vừa về nước anh cưới vợ ngay. Sau đó anh sang lại Praha để tiếp nhận món quà nước Tiệp Khắc viện trợ cho Việt Nam: Cung thiếu nhi Hà Nội. Anh Chi sau này mất trong một vụ án mạng bi thảm. Thời đó các vụ giết người kiểu đó không nhiều nên thế hệ tôi hầu như ai cũng biết về cái chết của anh. Nhờ làm luận án ở Viện nghiên cứu hạt nhân Praha tôi mới phần nào hiểu được đời sống và suy nghĩ của người dân Tiệp Khắc. Đa số mọi người muốn sống bình yên nhưng không ít người lúc nào cũng bức xúc bởi tình trạng đất nước bị quân đội nước ngoài chiếm đóng. Họ muốn có được sự tự quyết cho hướng đi của dân tộc mình chứ không muốn bị áp đặt phải đi theo một xu hướng hay chủ thuyết nào đó. Trò chuyện với một kỹ sư, tôi được biết viện phó của Viện nghiên cứu hạt nhân Praha, ông Kvasnica, vì tham gia ký tên vào một tuyên bố gì đó, hình như là bản Tuyên ngôn 2000 từ, nên đã bị vô hiệu hóa quyền lực, tuy vẫn có tên trong danh sách nhân sự của viện nhưng ông không có quyền hành gì, phải làm việc ở nhà chứ không thể đến viện. Řež bây giờ vẫn thế. Vẫn cây cầu sắt nhỏ xinh màu vàng bắc qua sông Vltava dành cho khách bộ hành. Vẫn những cánh rừng và những bãi cỏ xanh. Những nhân viên mà tôi quen biết và đã từng trò chuyện giờ chắc đã nghỉ hưu rồi. Có lẽ giờ đây họ không còn bức xúc nữa vì Cộng hòa Séc đã từ lâu không còn bị áp đặt bởi ngoại bang và đã có một nền chính trị đa nguyên như họ mong muốn. 




Nhà hát Na Vinohradech


Tôi đã từng đi xem kịch nói tại nhà hát Na Vinohradech một lần. Chỉ một lần thôi cũng đủ để tôi nhớ mãi về nó. Praha có hai nhà hát mà tôi thấy khán giả khi đến xem biểu diễn đều mặc y phục trịnh trọng, đó là Nhà hát Quốc gia và Nhà hát Na Vinohradech. Nhà hát quốc gia nằm bên sông Vltava, là một tòa nhà đồ sộ, rất đẹp và rất nổi tiếng, nơi thường trình diễn các vở nhạc kịch và ba lê. Nhà hát Na Vinohradech quay mặt ra Quảng trường Hòa Bình (Namesti Miru), về mặt kiến trúc không đẹp bằng nhà hát Quốc gia nhưng cũng là một tòa nhà rất lớn, với bốn mặt tiền, được xây dựng những năm đầu thế kỷ hai mươi, cách Bảo tàng quốc gia và quảng trường Vaclav chỉ vài trăm mét, là nơi thường chỉ trình diễn các vở kịch nói.

Vở kịch nói tôi từng xem tại nhà hát Na Vinohradech là vở Tên cướp (Loupežník) của kịch tác gia nổi tiếng Séc Karel Čapek. Hôm ấy tôi đi xem kịch cùng anh Thanh, lúc đó đã tốt nghiệp đại học và đang làm việc cho Sứ quán Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Anh đã vượt hơn mười cây số, từ tận đầu bên kia của Praha, khu Hodkovičky, để đến Petriny đón tôi đi xem. Đến rạp hát tôi thấy mọi người ai cũng bận y phục lịch sự. Đàn ông mặc complet, đàn bà mặc áo dạ hội và son phấn kỹ lưỡng. Tôi vẫn còn nhớ người đóng vai tên cướp là diễn viên nổi tiếng Jromir Hanzlik. Mặc dù không hiểu hết nội dung vở kịch nhưng tôi vẫn thấy vở kịch rất hay. Sân khấu trang hoàng đẹp và diễn viên diễn rất lôi cuốn. Anh Thanh có lẽ hiểu vở kịch hơn tôi vì anh học văn học Séc và trước khi xem kịch chắc có đọc các tác phẩm của Karel Čapek, trong đó có vở kịch Loupeznik. Sau mỗi hồi, khán giả lại vỗ tay tán thưởng. Lúc vở kịch kết thúc, khi các diễn viên ra chào khán giả, mọi người đứng dậy vỗ tay rất lâu. Hiếm có nơi nào khán giả lại yêu nghệ thuật như khán giả Praha. Sau này, váo cuối thập niên 1980, tôi có dịch một vở kịch nói của nhà viết kịch người Séc Jri Hubac, vở Dům na nebesích (Ngôi nhà trên thiên đường) ra tiếng Việt. Vở kịch được nhà soạn kịch Jri Hubac viết riêng cho nữ diễn viên Jiřina Bohdalová. Nó đã được công diễn ở nhà hát Na Vinohradech trong những năm giữa thập niên 1980 và là một trong những vở kịch đỏ đèn lâu nhất của nhà hát này. Người đóng vai chính trong vở kịch, vai Klara, chính là Jiřina Bohdalová. Những ai sống ở Praha hồi thập niên 1970 đều biết nữ nghệ sĩ Bohdalová. Người Séc rất yêu quý bà. Trong những dịp lễ tết long trọng bà hay dẫn chương trình và hay tấu hài với diễn viên rậm râu Vladimír Menšík. Một người nữa, cũng đóng một vai quan trọng trong vở kịch này là Jaromir Hanzlik. Anh đóng vai Fanda, Sau khi vở Dům na nebesích được tôi dịch ra tiếng Việt và được Nhà xuất bản Sân khấu phát hành, Ngôi nhà trên thiên đường được một nhóm các nghệ sĩ ở Hà Nội dàn dựng và được công diễn tại Hà Nội và nhiều tỉnh thành khác. Đài truyền hình Việt Nam cũng đã quay video và phát sóng vở kịch này vài lần. Tôi vẫn còn nhớ người đóng vai Klara là Thanh Tú, người đóng vai Fanda là Trần Vân, người đóng vai Erika, người yêu của Fanda, là Lê Khanh. Trên mạng Youtub hiện vẫn còn vở kịch nói Dům na nebesích do Jiřina Bohdalová đóng vai chính, với chất lượng hình ảnh không được tốt lắm nhưng xem cũng tạm được. Nhìn trên bản đồ Google, nhà hát Na Vinohradech vẫn hệt như xưa, người ta chỉ sơn lại bên ngoài cho nó lộng lẫy hơn, và nó vẫn được đỏ đèn hằng đêm. Tất nhiên, những diễn viên chúng tôi quen mặt như Jiřina Bohdalová, Jaromir Hanzlik, Miloš Kopecký, Hana Maciuchová đã không còn diễn ở đấy nữa. Người thì đã mất, người đã về hưu rồi.



Mělník


Mělník là một thành phố nhỏ và không có gì liên quan tới tôi nhưng tôi hay dùng phần mềm Street Views để trở lại thăm nó vì đã một lần và, duy nhất lần ấy thôi, tôi đi du lịch một mình tới đó. Thời ấy, như một quy định bất thành văn, sinh viên Việt Nam không ai được đi đâu một mình, kể cả khi nơi đó chỉ cách Praha vài chục cây số. Hôm ấy vào dịp hè, không có việc gì để làm, tôi nảy ra ý định đi du lịch. Tôi nhớ là tôi có rủ vài người nhưng không ai ủng hộ ý tưởng này, vì ai cũng ngại phiền phức và tốn kém. Thực ra cũng chẳng tốn bao nhiêu vì vé xe khách rất rẻ. Bất chấp quy định không được đi xa một mình, tôi quyết định thực hiện chuyến phiêu lưu nho nhỏ: lên xe đi Mělník. Thành phố này rất gần Praha, chỉ cách thủ đô khoảng 35 cây số, nếu đi xe khách thì chỉ khoảng chưa đầy một giờ đồng hồ là tới nơi. Thành phố có diện tích rất nhỏ, đi bộ vài chục phút từ quảng trường trung tâm là đã ra tới ngoại thành.  Tuy nhỏ nhưng Mělník khá đẹp. Các thành phố ở Séc và Slovakia có một đặc điểm giống nhau là tại khu trung tâm thường có một quảng trường nhỏ, ở đó tòa thị chính, có nhà thờ cổ, có những ngôi nhà đẹp mà lịch sử của chúng tới vài trăm năm và đó là nơi khách du lịch tập trung đông nhất. Quảng trường chính của Mělník không rộng lắm. Cách không xa quảng trường là lâu đài Mělník nổi tiếng. Xung quanh lâu đài là những cánh đồng trồng nho. Lâu đài nằm trên một quả đồi cao, phía dưới là ngã ba sông, nơi giao nhau của sông Labe và sông Vltava.  Từ xa dòng sông phẳng lì, trông như một con đường nhựa màu xanh đen. Hai bên sông là những cánh đồng và những cánh rừng xanh tốt. Hôm tôi đến, lâu đài Mělník không đón khách vào tham quan. Vì thế tôi đành giết thời gian bằng cách đi bộ dọc mấy con phố, ngắm nghía mấy tòa nhà cổ, rồi ra bến xe khách mua vé về Praha, kết thúc chuyến du lịch một mình duy nhất trong thời gian học ở Tiệp Khắc. Bây giờ, qua Street View, tôi biết Mělník đang nỗ lực tân trang, nhà cửa được sơn lại bắt mắt hơn. Lâu đài Mělník nghe nói đã được chính quyền trả lại cho chủ cũ. Nó cũng đang được phục chế lại. 




Bardejov


Bardejov là một thành phố nhỏ của nước Slovakia. Nó không liên quan đến tôi nếu tôi không viết thư cho hai cô gái học sinh trung học quê ở đó trong một khoảng thời gian dài. Thời tuổi trẻ tôi hay có những thói quen kỳ quặc. Hồi đó, không hiểu sao tôi thích chơi thân với các bạn nữ ngoại quốc. Để làm gì nhỉ? Chẳng để làm gì cả. Chỉ để viết thư kể cho nhau nghe những chuyện vặt vãnh hàng ngày, thậm chí cả những chuyện mà bây giờ tôi thấy  thật vớ vẩn. Tôi có hai bạn nữ để trao đổi thư từ. Một bạn tên là Anna và một bạn tên là Alzbeta. Bạn Alzbeta thì tôi chỉ gặp một lần, sau đó trao đổi thư từ và không gặp lại nữa, Còn bạn Anna thì sau lần gặp đầu tiên đã từng hai lần bạn đến thăm tôi ở Praha, một lần bạn đi với một cô gái khác và một lần đi một mình. Lần gặp thứ hai vào mùa hè và Anna nằng nặc mời tôi về Bardejov quê bạn chơi. Khi tôi thoái thác, nói là có việc bận ở Praha, không đi được, thì bạn ghi địa chỉ nhà bạn cho tôi và bắt tôi hứa sẽ đến thăm khi có dịp. Không có cách nào khác, tôi đành hứa đại và sau đó thất hứa, để rồi gần năm mươi năm sau tôi chỉ còn cách đến thăm nhà bạn bằng Street View. Thực ra, việc tôi viết thư cho các cô gái Slovakia một phần vì thấy nó hay hay, một phần vì bị ảnh hưởng của cuốn tiểu thuyết “Dopisy pro Jaszka” (“Những bức thư gửi Jaszek”) của nữ văn sĩ Séc Ludmila  Freiova. Đó là cuốn tiểu thuyết dành cho lứa tuổi mới lớn, kể về tình bạn (qua những lá thư) giữa một cô gái Séc đang học trung học tên là Alka và một chàng trai người Ba Lan tên là Jaszek. Nghĩ cũng buồn cười. Chẳng biết có phải tôi bị hội chứng dậy thì muộn hay không mà hồi đó, khi đã hai mươi mấy tuổi rồi, tôi vẫn còn thích đọc những cuốn sách dành cho tuổi mới lớn, ở miền Nam Việt Nam gọi là sách mực tím. Cuốn tiểu thuyết cho tôi cảm hứng để tôi trao đổi thư từ với hai cô nữ sinh trung học Slovakia suốt mấy năm trời. Đó không phải là tình yêu trai gái. Đó chỉ là những rung động đầu đời của những đứa trẻ ngây thơ. Trong hai cô thì Alzbeta chỉ là bạn thông thường, còn Anna thì có lúc hơi vượt quá tình bạn một chút. Lần cô ấy một mình đến thăm tôi ở Praha, hôm tôi  tiễn cô ấy về Bardejov, trên sân ga, lúc tàu sắp chuyển bánh, cô ấy đột nhiên ôm lấy tôi và hôn thắm thiết. Thú thật, đó là cái hôn đầu tiên trong đời tôi nhận được từ một phụ nữ. Cũng nhờ cái hôn đó mà tôi ghi nhớ mãi dòng địa chỉ cô gửi cho tôi để rồi sau này tôi tìm thấy nhà cô nhờ công cụ Street View. Đó là một cái nhà bình dị như tất cả những cái nhà bình dị khác ở Bardejov. Còn Anna, giờ này cô ấy ở đâu? Làm sao tôi có thể biết được. Street View chỉ có thể cho tôi thấy một ngôi nhà chứ không có chức năng mô tả số phận các cá nhân ở trong đó. Nếu tình cờ có chụp được ảnh họ thì Google cũng buộc phải làm nét mặt họ mờ đi. Tôi tin là giờ đây Anna có cuộc sống hạnh phúc vì cô ấy rất vui tính, hòa đồng và lúc nào cũng lạc quan, yêu đời.


Lương Duyên Tâm