Thursday, June 20, 2013

Truyện ngắn Cảm ơn của nhà văn Séc Eduard Petiska, Lương Duyên Tâm dịch


Nhân ngày Nhà báo Việt Nam 21-6, mời các bạn đọc truyện ngắn Cảm ơn của nhà văn Séc Eduard Petiska viết về tâm trạng của một chàng nhà báo độc thân đã luống tuổi khi trên đường đi thực tế để hoàn thành một bài phóng sự tình cờ gặp lại người phụ nữ mà anh ta từng ngưỡng mộ hồi còn học trung học.

 

 
Cảm ơn    

 

 
Truyện ngắn của Eduard Petiska

 

 
Vẫn như mọi ngày, hôm nay anh lại để rớt cà phê ra đĩa. Khi nhấc cái tách lên thế nào cà phê cũng sẽ nhỏ vào quần hoặc rơi xuống thảm, có khi vương vào cả hai thứ. Ngày hôm nay thế là lại bắt đầu như những ngày khác. Lúc Perner đã ngồi xuống uống cà phê, anh mới nhận ra là mình đã quên bỏ đường. Anh đang bị đau chân. Ngày hôm qua anh đã ngồi suốt ngày trên yên xe đạp nên giờ đây anh cảm thấy đầu gối mỏi nhừ. Anh lưỡng lự không biết có nên uống cà phê không đường không. Nhưng rồi anh đi đến quyết định là phải uống với đường. Cuộc đời chẳng lấy gì ngọt ngào cho lắm, tội gì mình làm cho nó đắng thêm.

 
Căn phòng ấm cúng. Lò sưởi tỏa hơi nóng. Bên ngoài cửa sổ bầu trời trong xanh ngào ngạt mùi hương mùa xuân. Ngày hôm nay chắc sẽ đẹp trời như ngày hôm qua.

 
Perner ăn sáng bên cái bàn nhỏ cạnh giường. Anh uống cà phê đen, thứ đồ uống tẻ ngắt của đàn ông do anh tự pha lấy.Anh nhìn cái bánh ngọt bằng đôi mắt chán ngán. Hôm qua cái bà bán bánh to béo ấy đã bán nó cho anh. Chắc bà ta phải khó nhọc lắm mới có thể chọn được cho mình chiếc bánh có lớp bơ mỏng nhất. Anh cắn lớp vỏ phủ bơ vàng giòn và chừa lại cái ruột bánh. Sau đó anh châm điếu thuốc lá và uống hết tách cà phê. Lần này thì anh không để giọt cà phê nào vương vào quần mà chỉ để nhỏ xuống thảm. Trong lúc hút thuốc và uống cà phê anh nghĩ ngợi lan man. Cái bà bán bánh ấy, bà ta không ưa mình. Nhưng nói cho cùng, ai là người thích mình cơ chứ!

 
Anh sống cô đơn một thân một mình và, như tất cả những người sống đơn lẻ khác, anh thường cảm thấy thương thân. Bây giờ, khi đã ngoại tứ tuần, anh càng cảm thấy thương mình hơn. Càng nghĩ nhiều về mình và càng thương mình, người ta càng ít để ý đến xung quanh. Những bài báo anh viết hình như chưa ổn lắm. Anh cảm thấy như thế. Nhưng anh là người viết báo đã có kinh nghiệm. Giờ đây những bài báo ấy đâu còn là những bài đầu tiên, khi anh phụ trách mục Tin tức từ quê nhà  và mục Hãy chú ý trên tờ báo huyện. Giờ đây anh thường viết phóng sự. Tuy vậy công việc không được trôi chảy lắm. Anh thấy ngán ngẩm cho những bài báo có vẻ đơn điệu, không bản sắc của mình.

 
Anh lấy chiếc cặp và mở tập ghi chép của mình ra. Tên bài phóng sự anh đã có sẵn rồi: Trại gia cầm lại bắt đầu sôi động. Thực ra anh chẳng việc gì phải vội vã đi đến cái trại gia cầm ấy. Anh có thể hình dung ra tất cả. Năm nào anh cũng viết phóng sự về nó. Cứ đến mùa xuân là lại có một bài, giống y như lễ phục sinh vậy. Bài báo năm ngoái anh đã dùng cái tít: Hãy tặng những quả trứng nhiều màu cho người thân yêu của bạn. Nếu cần Perner có thể viết bất cứ cái gì bằng chiếc máy chữ của mình. Những chuyến đi bằng xe đạp chỉ để thêm thắt vào mà thôi. Ngay từ lúc chưa đi anh đã biết cái anh sẽ nhìn thấy và cũng ngay từ đầu anh đã linh cảm thấy điều mà anh sẽ được nghe. Riêng chỉ có số gia cầm và số trứng là tăng lên.

 
Ý nghĩ về bài phóng sự lôi cuốn anh. Nếu cần anh có thể dựng lên cả một trang báo bằng toàn những đầu đề. Thỉnh thoảng, khi ngồi trên xe đạp ngắm nhìn bốn phương trời đất, anh có cảm tưởng như thế giới được tạo nên bởi những dòng tít, ví dụ như: Ánh nắng mùa xuân quyến rũ, hoặc Con đường cũ đang thanh xuân lại.

 
Trên con đường quen thuộc mà anh đi ra ngoại ô hầu như hàng ngày, khi mùa đông qua lẽ ra nó phải thanh xuân lại, nhưng thực tế nó không trẻ ra tí nào, và bài báo của anh thì đã xưa cũ mất rồi. Anh đã thuộc lòng từng cái ổ gà, từng cây mận bên đường khi nó còn trụi lá và cả vẻ vắng ngắt của con đường trong những chiều mưa buồn. Chiếc xe đạp của anh đã hằn vết lên con đường với vẻ ngoan cố của người chỉ thích đạp xe chứ không chịu ngồi ô tô buýt.

 
Anh ra đi muộn hơn mọi ngày. Bài báo trong kẹp giấy anh viết đã gần xong. Chỉ cần thêm vào vài đoạn và vài câu đối thoại trực tiếp nữa. Ngay cả mấy câu đối thoại ấy anh cũng có thể sáng tác ra được, đại loại như anh sẽ hỏi gì và người ta sẽ trả lời ra sao. Anh đi trên con đường quen thuộc như đi vào cõi trống trải vô biên, nơi ấy không còn ý nghĩ, không còn cảm giác, chỉ còn hiện ra những dòng tít của các bài báo mà anh đã viết trong quá khứ và sẽ viết trong tương lai.

 
Anh nhìn sang hàng mận bên kia đường: Mùa mận chín đang chờ thu hoạch. Anh liếc sang ống khói nhà máy đường: Vàng trắng, xin chào mừng. Anh theo con đường dốc đổ xuống bờ sông: Quê hương của bầy cá đang bị đe dọa.

 
Con sông và dải bờ xanh mờ hiện ra. Những con bướm trắng nôn nóng bay lên từ những đám cỏ, sau đó lại bay xuống. Tất cả những loài có cánh: chim chóc, bướm, ruồi đều tha hồ vẫy vùng thỏa thích. Dường như đối với chúng chẳng có biên giới nào cả. Chúng cứ việc mặc sức bay lượn trong không trung. Ít ra người ta cũng cảm thấy như thế. Tuy nhiên sự tự do vô biên ấy cũng bắt đầu làm Perner phát chán.

 

Ông già Tikava đang ngồi trên bờ sông. Đúng là Một bức tượng bên dòng nước. Từ ngày Perner viết bài báo về ông đăng trên tờ báo huyện, ông Tikava vẫy anh ngay từ đằng xa. Tất cả những việc mà ông Tikava làm trong đời đều liên quan đến dòng sông. Ông ta đã từng là thủy thủ, sau đó làm lái đò và cuối cùng là ngư phủ.

 
-          Xin chào, xin chào! – Ông già Tikava gọi anh và đưa tay qua đầu vẫy vẫy.
-          Chào bác, chào bác, - Perner chào lại, nhưng chân anh vẫn không ngừng đạp. Nếu mình không viết cái bài báo để nó mang lại vinh quang cho ông ta thì không biết ông ta có vẫy chào mình không. Rõ ràng là ông ta cũng chẳng ưa gì mình. Nhưng rốt cuôc ai là người ưa mình cơ chứ?

 
Ý nghĩ ấy làm anh quan tâm. Con người ta thích một người nào đó vì lẽ gì nhỉ? Tính cao thượng chăng?  Không phải. Hay là tiền tài hoặc sắc đẹp? Nhưng đấy không phải là tình yêu. Cái ấy chỉ có ý nghĩa đối với những kẻ tự  huyễn hoặc bản thân rằng tiền tài và sắc đẹp cũng thuộc phạm trù tình yêu. Con người thích người khác chẳng qua là vì bản thân mình mà thôi. Nhưng đó là cái phần nào của bản thân, phần xấu hay phần tốt? Đúng là khó có thể giải thích được. Có thể tình yêu là cái đến với anh rồi lại từ bỏ anh mà ra đi, giống như một cuộc đột kích từ phía ngoài vào…Anh cứ băn khoăn mãi về ý nghĩ đó. Anh không phải là người sành sỏi trong lĩnh vực tình cảm và tâm lý. Với phụ nữ anh thường cư xử nghiêm nghị và lãnh đạm mà nguyên nhân của cách cư xử đó chính là tính nhút nhát và đa nghi của anh chàng độc thân đã luống tuổi.

 
Những cây dương xanh tốt báo hiệu cho anh biết là đã đến khu trại nghỉ mát cuối tuần. Những căn nhà nghỉ vắng ngắt đang thiu thiu ngủ trong buổi sáng ngày thường. Những dãy cửa sổ đóng kín. Những con chim sẻ do không bị ai quấy rầy bay đến đậu trên máng nước chăm chú nhìn người đàn ông đơn độc đang đạp xe.

 
Perner hãm phanh. Anh lượn vòng để tránh một cái ổ gà. Nhưng khi vừa hãm phanh thì xe bị tuột xích. Thế là anh lại phải xuống xe để tra xích vào đúng vị trí của nó. Cái trò này diễn ra luôn luôn và cứ khi nào xe tuột xích là anh lại tự nhủ với bản thân rằng đã đến lúc phải mua cái xích mới, rằng anh sẽ phải sửa cái xe cho tử tế hơn, nhưng chẳng bao giờ anh chịu  thực hiện điều đó. Anh hay tự thanh minh rằng mình không có thời gian, nhưng trên thực tế cứ khi nào có thời gian thì anh lại cố trốn tránh ý định sửa xe đạp. Toàn bộ cái xe, từ xích, líp cho tới những cái đinh ốc, mọi thứ đã làm cho Perner chán ngấy. Tốt hơn hết là thỉnh thoảng chịu khó xuống đặt lại xích, sau đó lau sạch mấy ngón tay đầy dầu mỡ. Tuy nhiên, lần này anh gặp may. Sau k hi đặt lại xích, anh có thể bước xuống bờ sông rửa tay cẩn thận.

 
Khi quay trở lại chỗ để chiếc xe đạp, bất chợt anh nhìn thấy trong khuôn cửa sổ mở rộng của căn nhà nghỉ có một người đàn bà. Chị ta đang giũ giũ tấm giẻ lau nhà, vừa làm vừa nheo mắt và nhăn mũi lại. Khi cúi xuống, vùng mặt của chị ta tối lại, lộ rõ đôi gò má cao. Sự hiện diện của người phụ nữ trong khu nhà nghỉ vào giờ này và ngày hôm nay làm Perner ngạc nhiên. Anh đứng yên bên chiếc xe một lát.

 
Người đàn bà ngừng giũ tấm giẻ lau nhà. Chị ta mở to đôi mắt màu nâu nhìn anh. Ngay từ xa anh đã có thể nhận ra đó là một đôi mắt màu nâu và anh linh cảm thấy rằng anh biết về chị ta nhiều hơn thế. Thoạt nhìn anh đã biết chắc chắn như vậy.

 
-          Lada! – Người đàn bà thốt lên.

 
Hình như mình đã trải qua cái cảnh này một lần rồi thì phải, - anh thoáng nghĩ. Và mặc dù anh chẳng để ý đến cái năm tháng xa xưa ấy, anh vẫn bước qua cánh cổng khép hờ để vào mảnh vườn nhỏ. Người đàn bà rời cửa sổ. Hai người gặp nhau ở cửa nhà. Chị đến chậm hơn anh một chút vì khi đi qua tấm gương , chị còn ghé lại ngắm khuôn mặt mình một thoáng.

 
-          Sao lại có chuyện kỳ lạ thế này? – Anh nắm bàn tay ấm áp của chị. – Suýt nữa thì tôi không nhận ra. Chỉ tại mái tóc này. – Và anh nghiêng đầu về phía mái tóc cắt ngắn của chị.
-          - Chỉ tại mái tóc thôi ư? – Chị cười.
-          Vâng. Chỉ tại mỗi mái tóc thôi. – Và anh cười lấy lòng.
-          Còn anh thì tôi nhận ra ngay. – Thực ra chị đã nói dối. Phải mất một lúc chị mới nhận ra trên khuôn mặt người đàn ông dáng dấp của chàng thanh niên trẻ trung ngày xưa, cái ngày đã chìm trong màn sương mờ của quá khứ. (Ôi cái thời ấy mới đáng yêu làm sao). Dáng đứng của người đàn ông bên chiếc xe đạp gợi chị nhớ về một kỷ niệm, ở đấy có có một người con trai đã lâu lắm rồi thường đứng dưới cửa sổ nhà chị. Đúng, khi ấy anh còn là một chàng trai mới lớn, còn chị , chị cũng chỉ mới là một thiếu nữ. Những năm tháng đó chị sống cùng với bố mẹ mình trong căn hộ ở tầng hai một tòa nhà cao tầng trong thành phố. Giờ đây, khi hai người đã ngồi bên nhau trong nhà, chị nhận ra  từ khuôn mặt beo béo của anh dáng vẻ của chàng trai gầy gò năm xưa.

 
Perner không để ý đến cái nhìn mang ý nghĩa khám phá ấy. Bản thân anh, anh cũng để ý nét mặt người đàn bà để đoán biết số phận chị. Những kỷ niệm của thời xa xưa đã bị ngày tháng cuốn đi hầu như toàn bộ mọi chi tiết, giống như những rặng cây về mùa thu bị rụng hết lá, chỉ còn trơ khấc những cành.

 
-          Chị có cháu rồi phải không?- Anh hỏi. Năm tháng xa xưa như quay trở về với họ. Bao nhiêu năm đã trôi qua nhỉ? Hai mươi năm hay là hơn? Thật là cả một núi thời gian.
-          Mọi chuyện đều tốt lành cả, - chị nói, - chỉ có điều là tôi đã ly dị chồng…

 
Anh lắng nghe chị kể, mắt ngước nhìn tán cây thưa thớt lá ngoài sân. Câu chuyện cũng ngắn ngủi thôi nhưng anh không muốn chị cứ kể lể mãi về những chuyện không liên quan gì đến mình.

 
Anh điểm lại trí nhớ. Trong bức tranh quá khứ anh bỗng thấy hiện lên không sót một chi tiết quan trọng nào. Trong bức tranh ấy có một dòng sông, một vầng trăng ướt át phản xạ trên mặt nước và bóng nước gợn sóng lăn tăn khi chiếc ca nô của họ được thả xuống sông.

 
Họ đã thuê chiếc ca nô ấy và cùng nhau bơi đến một cái đảo nằm giữa dòng sông để  tổ chức buổi dạ hội chia tay sau ngày thi tốt nghiệp trung học. Họ muốn liên hoan theo cái kiểu của mình, không muốn bị ai ép buộc hoặc áp đặt. Họ đang lâng lâng bởi cảm giác rằng họ đã trở thành người lớn. Dưới đáy ca nô lăn lóc mấy cái vỏ chai đựng rượu rỗng không.

 
Các cậu nam sinh và các cô nữ sinh cho đến lúc ấy vẫn còn rất gắn bó với nhau. Họ đã học với nhau nhiều năm và giờ đây tất cả đều biết rằng họ sẽ không còn nhiều dịp gặp nhau nữa.

 
Anh đã đưa tay dắt chị bước xuống chiếc xuồng máy nhỏ và anh có cảm giác như thể anh đang dắt tương lai của mình. Thực ra anh cũng tin như thế. Hồi ấy anh khâm phục chị ở mọi phương diện: cái mũi tẹt, đôi gò má cao, cặp mắt to màu nâu. Tình yêu không cần đến vẻ hài hòa., tình yêu ngưỡng mộ chính bản thân nó.

 
Mãi cho đến khi trong anh không còn tình cảm bồng bột say mê của tuổi trẻ, cảm giác ngây ngất của cuộc chia tay đêm ấy vẫn còn ám ảnh anh. Giờ đây anh ngắm nhìn khuôn mặt của người đàn bà ngồi trước mặt mình, cố tìm kiếm không phải dáng dấp người con gái năm xưa mà là cái cảm giác ngây ngất thuở nào. Hàng ngày anh thường gặp khá nhiều gương mặt phụ nữ. Ở người này, nét mặt họ phản ánh tâm trạng không bình yên, ở người kia là sự chậm chạp lười biếng biểu hiện bằng những cái chớp mắt uể oải, ở một số người đàn bà khác, nét mặt họ lại làm anh khó chịu bởi vẻ tự tin quá đáng.

 
Người đàn bà ngồi đối diện với anh vẫn nói. Chị kể về những công vệc của mình và về lũ cháu. Perner phân vân không biết nên xếp khuôn mặt chị vào loại nôn nóng, thỏa mãn hay tự tin bởi vì trong khoảnh khắc anh bỗng thấy hiển hiện trước mắt mình kỷ niệm của ngày xa xưa và anh như nghe thấy từ chiếc xuồng máy vang lên cùng những tiếng hát, tiếng cười nói, tiếng gọi nhau…

 
Khi lửa trại đốt lên, khói tỏa mùi thơm của củi ẩm. Từ chiều họ đã chuẩn bị sẵn một đống củi nhưng do sương xuống nhiều nên chúng thấm hơi ẩm và phải một lúc lâu sau ngọn lửa mới bùng lên, những tia lửa màu hồng và màu vàng. Trong ánh lửa anh thấy thấp thoáng những khuôn mặt bạn bè mình, bạn trai và bạn gái. Những khuôn mặt xếp thành vòng tròn xung quanh đống lửa đang lắc lư theo tiếng hát. Hồi ấy họ đã hát bài gì nhỉ? Và đó là những khuôn mặt ai? Itka ngồi bên cạnh Perner. Anh không dám nhìn sang phía chị mà đăm đăm nhìn ngọn lửa, đồng thời cảm thấy trong tim mình có một bài thơ đang hình thành, giống như một nỗi nhớ thương, xao xuyến đang từ từ dâng lên. Đến tận giờ, khi đã ngồi trong căn nhà nghỉ bên sông này, anh vẫn còn thấy rõ ràng cảm giác ấy. Lúc đó anh thấy mình đã lớn, đã trưởng thành, khỏe mạnh, cường tráng và đang vùn vụt bốc lên như làn khói cuồn cuộn dâng lên từ đống lửa trại. Anh bỗng cảm thấy biết ơn.

 
-          Cảm ơn chị, - đột nhiên anh nói, cắt ngang lời người phụ nữ đang ngồi đối diện với mình.
-          Anh cảm ơn tôi về cái gì cơ chứ? – Chị hỏi anh. Sau đó chị tiếp tục câu chuyện bỏ dở.  – Tôi nói: Vitek, cháu không được phép làm như vậy. Cháu mà làm thế thì bà sẽ khóc đấy…- Rồi chị bỗng sực nhớ: - Anh uống cà phê nhé. Tôi đi pha cà phê đây. Anh thấy thế nào? – Rồi chị đứng dậy, đi ra phía sau tấm rèm, lấy một cái bình và rót nước vào đó.

 
Sau khi đã chất đầy củi lên đống lửa, đám thanh niên bắt đầu khiêu vũ. Milan mang theo một chiếc máy ghi âm, cái máy cổ lỗ sĩ có ghi năm sản xuất 1947. Họ nhảy trong ánh sáng bập bùng bên hơi ấm của ngọn lửa. Sáng và tối, nóng và lạnh xen kẽ nhau. Perner nhảy với Itka, và anh có cảm giác như đang khiêu vũ với cái bóng thơm ngát của chị. Mỗi khi ngọn lửa chìm đi, trong bóng tối, chị lại áp sát người vào anh, đến nỗi anh cảm thấy hơi ấm của thân thể chị thấm vào tận trái tim mình.

 
Rồi anh ngồi trên đám cỏ một mình tận hưởng cái cảm giác vừa rồi một lần nữa, sâu sắc hơn, mãnh liệt hơn, đồng thời anh mơ tưởng về tương lai. Khi ấy đêm đã khuya, ngọn lửa tàn dần và vầng trăng ngày càng sáng hơn. Bỗng nhiên anh nhận ra rằng Itka, trong lúc nhảy với Milan, mỗi khi chìm trong khoảng tối, chị cũng áp sát người vào cậu ta. Anh đứng lên, rời bãi cỏ, đi về phía bờ sông, sát mặt nước và cảm thấy có cái gì như giới hạn tận cùng. Trên dòng sông thẫm đen, sóng gợn lăn tăn, chỗ tối chỗ sáng đan cài vào nhau, như không có biên giới, không có khoảng chuyển tiếp. Giống như niềm hạnh phúc và nỗi đau đớn của con người.
-          Tôi được phép hút thuốc chứ?
-          Tất nhiên rồi,- chị trả lời. Và anh nghe thấy phía sau tấm rèm có tiếng lách cách.

 
Có một bóng người đi từ phía trên xuống bờ sông và tiến đến chỗ anh. Ai thế nhỉ? Mãi tới khi người ấy đến gần anh mới nhận ra . Đó là Ivanka, cô bạn gái học cùng lớp với anh, cô gái mà anh chỉ để ý khi mượn vở chép bài.
-          Anh làm gì ở đây thế?- Cô hỏi và ngồi xuống bên anh, bên đống đá. Đó là một cô gái nhỏ nhắn, xinh xắn. Cô nói, như thể thanh minh: - Trên ấy họ vẫn đang khiêu vũ.

 
Đúng ra cô chẳng cần nói điều đó vì trong tiếng dế kêu dai dẳng thỉnh thoảng lại vang lên tiếng kèn xắc xô phôn. Perner đang khao khát một thứ tình thương mến nào đó, anh muốn được hưởng tình cảm dịu dàng.
-          Ivanka…

 
Ivanka đã hiểu được nỗi thất vọng của anh. Phụ nữ họ luôn luôn thấu hiểu những nỗi bất hạnh của đàn ông, nhất là khi nỗi bất hạnh đó bắt nguồn từ một người phụ nữ khác. Cô đưa tay ra và anh nắm lấy tay cô bằng một động tác như đóng kịch, đến nỗi ngày hôm sau, khi nhớ lại động tác đó anh vẫn còn cảm thấy ngượng, thế nhưng lúc đó, giữa đêm khuya, anh lại thấy nó mang nhiều ý nghĩa. Anh nắm bàn tay Ivanka trong tay mình, những ngón tay cô nhỏ bé, xinh xẻo, yếu ớt và có gì đó như hiến dâng. Ivanka không giống Itka. Cả bàn tay cô cũng không giống bàn tay của Itka.

 
Đã lâu rồi anh không nhớ lại buổi tối hôm đó nữa. Thế mà giờ đây kỷ niệm cũ chợt sống lại, rõ ràng và sinh động như thể anh vẫn thường nhớ đến hàng ngày.

 
Mãi đến gần sáng cả lớp mới chia tay nhau. Sau đó họ không còn dịp nào gặp nhau nữa. Anh không nhớ được nét mặt của Ivanka. Mỗi khi muốn hình dung vẻ mặt cô, anh phải tìm cô trong bức ảnh chụp cả lớp hồi thi tốt nghiệp trung học. Khuôn mặt cô lẫn trong bao nhiêu là khuôn mặt khác. Nhưng khuôn mặt Itka thì anh nhớ. Chỉ riêng Itka thôi.

 
Từ bếp chị quay trở lại chỗ cũ, tay bưng hai tách cà phê. Chị đặt một tách cà phê trước mặt Perner, và anh nhận thấy chị không để vương ra đĩa giọt nào. Có lẽ mình cần đôi bàn tay phụ nữ. Ý nghĩ đó vang lên trong đầu anh, nghe như đầu đề của một bài báo.

 
Chị ngồi vào chỗ của mình rồi nói:
-          Anh cho tôi xin hơi thuốc.
-          Mời chị. – Anh rút từ trong túi ra bao thuốc lá và đưa nó cho chị.
-          Không, - chị cười, - tôi chỉ hút một hơi thôi.

 
Anh đưa cho chị điếu thuốc hút dở. Chị hút một hơi nhẹ và ngay sau đó đưa trả anh. Rồi chị quay mặt đi để nhả khói.

 
Anh cầm điếu thuốc bằng hai ngón tay và cảm thấy trên môi mình mùi sáp tô môi thơm thơm như mùi quả dâu rừng. Đó là cái hôn của chị mà điếu thuốc lá đã chuyển cho anh.

 
-          Chị có nhớ …- Anh lưỡng lự. – Chị có nhớ buổi dạ hội chia tay sau ngày chúng ta tốt nghiệp trung học không?
-          Buổi dạ hội tổ chức ở khách sạn Zastera ấy à?

 
Hồi ấy họ có những hai buổi dạ hội chia tay. Một buổi chính thức tổ chức cùng các thày, các cô ở khách sạn và một buổi do họ tự tổ chức, đi bằng xuồng máy, bên đống lửa trại, ở trong rừng. Perner đã quên bẵng mất buổi liên hoan tổ chức ở khách sạn.
-          Không, - anh nói, - tôi định nói đến buổi dạ hội đi bằng ca nô, có đốt lửa ấy…
-          Dạ hội chia tay bên đống lửa ấy à?...- Chị xoay xoay bao diêm trên bàn. – À, đó đúng là một sáng kiến tuyệt diệu. Đêm hôm ấy tôi bị tàn lửa làm thủng mất cái áo.
-          Chị cho phép tôi hỏi một câu nhé?
-          Ôi, anh khách khí quá.
-          Tôi chỉ muốn …- Anh lúng túng không biết nên bắt đầu ra làm sao.
-          Anh cứ hỏi tự nhiên.
-          Chị biết không… lần ấy…trong đêm, bên đống lửa ấy mà…khi chúng ta ngồi bên ngọn lửa…
-          Khoan đã, tôi nhớ ra rồi,- chị nói khi thấy anh im bặt, - tôi nhớ là lần ấy chúng ta có khiêu vũ.
-          Vâng…nhưng lần ấy, bên đống lửa…lần ấy…có phải là chị đã từng thích tôi không?

 
Chị nhìn anh. Người đàn ông đang ngồi trước mặt chị trước kia là bạn học của chị. Chắc chắn những câu chuyện xảy ra bên đống lửa hồi ấy phải tuyệt diệu lắm. Chị không còn nhớ được là trong đêm ấy chị đã khiêu vũ cùng ai. Nhưng chắc là buổi khiêu vũ ấy phải vui lắm. Sau đêm ấy chị còn dự bao nhiêu đêm liên hoan khác nữa. Kỷ niệm này chồng lên kỷ niệm kia. Cái ở dưới cùng chị không sao nhớ được.

 
Nhưng chị vẫn nhớ cái dáng anh đứng tỳ tay lên ghi đông xe đạp ở ngay dưới cửa sổ nhà chị. Anh đứng và ngước lên nhìn. Sự ngưỡng mộ ấy thật là cảm động.

 
-          Hồi đó chị có thích tôi không? – Anh khẽ khàng hỏi lại chị một lần nữa.

 
Chị gật đầu.
-          Cảm ơn, -anh nói nhỏ. – Cảm ơn chị.

 
Một lát sau họ chia tay nhau. Suýt nữa thì anh bị lỡ mất bài phóng sự. Trong đầu anh vẫn vang lên hai tiếng “ cảm ơn”.

 
Nhưng mình cảm ơn chị ta về cái gì cơ chứ? Anh đạp chân lên pê đan xe đạp và kinh ngạc về câu nói ban nãy của mình. Thôi, lần sau mình phải tránh xa cái khu nhà nghỉ này, - anh tự trừng phạt mình.

 
Nhưng niềm vui đang nhen lên trong lòng mình thì anh không thể lẩn tránh được. Thế rồi khi đi qua cánh đồng, nơi có những người đàn bà đang làm lụng, anh bỗng cảm thấy có một cái gì mà trước đây anh chưa hề cảm thấy. Một cái gì đó rất cụ thể mà anh không giải thích được đã bắt đầu nảy nở trong anh.

 

 

 
Lương Duyên Tâm dịch

 

 
(Rút từ tập truyện ngắn Thế giới tràn đầy tình yêu của nhà văn Séc Eduard Petiska, Lương Duyên Tâm dịch từ nguyên bản, Nhà xuất bản Văn học, năm 1998)

-           

 

Wednesday, June 19, 2013

Truyện ngắn Kỳ thi của nhà văn Séc Eduard Petiska, Lương Duyên Tâm dịch


Kỳ thi
 
 
Truyện ngắn của Eduard Petiska



Trong phòng vẫn còn tối đen, chỉ có chút ánh sáng màu xanh lá cây tỏa ra từ những chữ số trên mặt chiếc đồng hồ báo thức. Kim chỉ một giờ rưỡi.

 

Denisa không ngủ được. Thời gian gần đây cô đâm ra hay buồn ngủ về ban ngày, còn ban đem thì lại tỉnh.Trong đêm cô thường hay nghĩ lung tung về những chuyện mà ban ngày cô không nghĩ đến. Có thể nói đó là những nỗi lo âu. Ở đấy có mẹ, có Lesek và có kỳ thi tốt nghiệp trung học đang chờ cô sau hai tháng nữa.

 

Lesek nằm bên cô và đang ngủ.Cô có thể hình dung ra anh ngay cả trong bóng đêm.Anh nằm nghiêng về bên phải, đầu gối co lại, mái tóc dài của anh xõa trên vai trần.Bất cứ lúc nào nghĩ về Lesek là cô lại nhớ đến mẹ.

 

Sáng hôm qua mẹ đi đi lại lại trong căn hộ hai phòng mà hai mẹ con đã ở với nhau suốt mười hai năm trời, kể từ khi bố cô bỏ đi, lúc con gái ông mới có năm tuổi. Mẹ đi lại trong phòng và từ người mẹ tỏa ra cái mùi của bệnh viện. Mặc dù trước khi về nhà, mẹ đã thay áo và để ở chỗ làm việc cái áo blu của hộ lý nhưng mẹ vẫn như chuyển cả cái bệnh viện về nhà. Về mặt này thì con gái bà có khứu giác đặc biệt thính nhậy. Lúc bấy giờ mẹ cô cứ đi lại mãi trong phòng để truy tìm dấu vết. Và khi mẹ bước vào thì câu chuyện bắt đầu.

 

Denisa!- Mẹ la, - Cái thằng ấy lại đến đây phải không?

 

Câu nói này Denisa đã nghe thấy cách đây nửa năm, bằng cái giọng hệt như thế và cũng đúng vào giờ này. Nửa năm trước đây cô và Lesek còn thận trọng hơn. Bao giờ họ cũng cố gắng xóa các dấu vết. Những đầu mẩu thuốc lá trong cái gạt tàn đã được đổ đi sạch. Trong khi mẹ cô đi tới đi lui trong phòng và quát tháo thì Denisa tin chắc rằng những đầu mẩu thuốc lá kia là những chứng cứ duy nhất để chứng minh sự có mặt của Lesek và cô dần dần bình tĩnh lại. Cô cố giữ im lặng, không cãi mẹ.

 

Mẹ cô cáu kỉnh đi quanh cô. Trong lời mẹ nói bao gồm cả sự mệt mỏi, nỗi tức giận và tình trạng bất lực.

 

-         Mẹ thì đi trực đêm… Còn con, con dẫn trai vào phòng ngủ…

 

Denisa chỉ chọn nghe trong những lời trách mắng một số từ.

 

-         Anh ấy là bạn con, cô trả lời.

 

-         Thật xấu hổ, -mẹ cô nói. Cứ thế, rồi chẳng bao lâu nữa con sẽ trở thành một đứa con gái hư hỏng.

 

Denisa không còn nhận ra mẹ nữa.

 

Tất cả những chuyện xảy ra sáng hôm qua cũng giống như tấn kịch om sòm xảy ra cách đây nửa năm. Lần ấy Lesek để quên chiếc mũ ở nhà cô. Ngay tối hôm đó, khi mẹ đi trực đêm thì Lesek đến. Denisa nói ngay với anh về chuyện chiếc mũ.

 

-         Thế à…- anh ngạc nhiên. – Em biết không, anh hoàn toàn không nhớ là mình đã mang theo mũ. Thế nó đâu?

-         Mẹ em mang đi rồi.

-         Mẹ có biết tên anh không?

-         Không.

Anh ôm lấy vai cô và dẫn cô đến bên giường.

-         Không, không, - cô nói, -  hôm nay chúng mình đi xem phim.

-         Anh không thích xem.

-         Sao lại không?

-         Em thừa biết là anh đang muốn gì.

Anh ngồi lên giường và nhìn cô đang đứng bối rối cạnh bàn. Bao giờ cũng thế, kể cả hôm ấy.

        -   Em yêu anh cơ mà, - cô nói khẽ.

         -  Như yêu mẹ và yêu bố chứ gì?

         -  Không phải.

Tình cờ anh đã nhắc đến bố cô.

-         Em có còn yêu anh nữa không?

-         Anh không thấy là em vẫn yêu anh à?

-         Như yêu mẹ và…

-         Anh từ từ đứng dậy, từ từ đi vòng qua bàn, từ từ đi ra phía cửa. Anh chờ cô giữ lại. Nhưng cô không giữ anh. Anh bước ra ngoài hành lang. Cô đi theo anh và mở cửa cho anh.

 

Khi anh bước xuống thềm, đế giày xiết lên bậc cầu thang kèn kẹt như có ai dùng dao cùn cắt một khúc bần.

 

Cô chạy theo và đuổi kịp anh ở tầng mặt đất. Cô dẫn anh lên , tim đập thình thịch vì sợ có người nào đó nhìn thấy họ đi với nhau; nhưng không ai nhìn thấy.

 

Hôm ấy là đêm đầu tiên Lesek ngủ ở nhà cô. Từ đó đến nay đã mấy tháng rồi. Từ đó đến nay mẹ cô đã có bao nhiêu buổi trực đêm và cô với Lesek đã ở với nhau thêm bao nhiêu lần nữa. Gần nửa năm rồi còn gì.

 

Lesek đã quen thuộc với căn phòng như là người trong gia đình nhưng không ai biết gì về anh. Nếu không có những đầu mẩu thuốc lá và cái mũ ấy thì ngay cả mẹ cũng không tài nào biết được. Denisa không bao giờ kể với ai về anh, kể cả các bạn học của mình. Bất cứ khi nào cô cảm thấy băn khoăn về mối quan hệ của mình thì ý thức lại an ủi cô rằng mọi chuyện cô làm là hoàn toàn bí mật, và điều bí mật đó đã làm cho cô có vẻ khác người. Cô thấy thích thú vì thấy mình không giống những người bình thường, nhất là điều bí mật kia lại liên quan đến một người đàn ông.

 

Cách đây không lâu bố cô là người đàn ông duy nhất trong gia đình. Dù ở rất xa nhưng từ ông vẫn tỏa ra một thứ ánh sáng rất đặc biệt nào đó, tương tự như ánh lửa của đám cháy ở phía xa xăm, nó làm cho người ta lo ngại nhưng đồng thời lại khêu gợi cả sự tò mò.

 

Bố cô hiện đang sống ở Australia nhưng không ai biết đích xác ông đang sống vất vưởng hay đã trở thành một người giàu có. Chỉ có mẹ cô là luôn luôn tin chắc rằng ông vẫn đang sống một cuộc đời khốn khổ. Khi mà bố cô đã từ bỏ gia đình cô để ra đi thì có nghĩa là bố coi mẹ con cô như đã chết. Nếu vậy thì đối với mẹ con cô, bố cũng như đã chết rồi, có điều chết mà không đi viếng mộ được mà thôi.

 

Sau khi bố đi, mẹ cô đã gỡ bức ảnh treo trên tường xuống. Trong bức ảnh viền khung kim loại ấy có một người đàn ông còn trẻ ngồi trên chiếc xe mô tô và đang mỉm cười. Người đàn ông ấy là bố cô, còn cái xe mô tô ông đang ngồi là của một người bạn.

 

-         Cả đến cái xe mô tô ông ấy cũng đi mượn, - mẹ cô thường nói thế.

 

Bức ảnh để lại trên tường một vệt mờ hình chữ nhật, nhưng giờ đây, sau bao nhiêu lần quét vôi lại, không ai có thể nhận ra trước đây nó đã được treo ở chỗ nào. Một lần Denisa hỏi mẹ về bức ảnh đó nhưng mẹ cô nghiêm khắc từ chối. Trong cuộc đời mình Denisa đã mất cả bố lẫn bức ảnh duy nhất của ông. Đôi khi cô có cảm tưởng rằng cô đã đánh mất một cái gì đó mà cô chưa hề có. Cảm giác đó khiến cô thấy mình cần phải thổ lộ với mẹ về các bạn trai cùng lớp hoặc cùng phố với mình.

 

-         Ôi dào! – Mẹ cô thường lạnh lùng nói thế và trong mắt mẹ ánh lên sự nghi ngờ được giấu giếm một cách vụng về, rằng con gái bà đã bắt đầu thừa hưởng được tính di truyền của bố nó.

 

Mẹ không bao giờ nói chuyện về đàn ông. Giữa mẹ và những người đàn ông là kinh nghiệm sống không thành đạt với người chồng và nó như một trở ngại, mặc dù với những người đàn bà khác, - điều này Denisa đã có cơ hội quan sát xung quanh, – những người đàn bà khác thì lại sử dụng thất bại của mình với người chồng cũ như là một cái cầu để đến với người đàn ông khác và người đàn ông khác nữa. Giờ đây cô đã không còn nhớ vẻ mặt bố cũng như cô không thể nào phục hồi được diện mạo của ông. Trong phòng bên cạnh có treo bức ảnh của ông ngoại cô. Trong ảnh là một người đàn ông trẻ, đẹp, để ria,  đang chăm chú nhìn. Thế rồi trong trí tưởng tượng của cô, hình ảnh người bố đã thay bằng vẻ mặt của ông ngoại và rốt cuộc, khi cô nghĩ về bố thì gương mặt người ông thời trẻ hiện ra.

 

Cách đây sáu năm, người đưa thư mang đến một bức thư của bố cô. Đó là lá thư đầu tiên và cũng là lá thư duy nhất. Denisa tin chắc mẹ sẽ đọc to lá thư này cho cả cô cùng nghe.

 

-         Thư của ai thế mẹ? – Cô hỏi.

-         Của ông ấy.

-         Mẹ đọc đi.

-         Không…- Mẹ cô trả lời và bỏ lá thư vào túi tạp dề.

 

Mẹ đã cất kỹ lá thư. Mẹ bỏ nó vào ngăn kéo và khóa lại. Thế nhưng trên thế gian này không có thứ bí mật nào có thể giữ kín được.

 

Một lần mẹ cô vội đi trực và quên khóa ngăn kéo. Thế là Denisa lấy được bức thư mà từ lâu cô vẫn ao ước đọc nó. Ở nơi nào đó chắc chắn phải tồn tại một chiếc chìa khóa để cô mở cánh cửa quá khứ mà bấy lâu nay mẹ vẫn đóng chặt trước mắt cô. Denisa khao khát sự thật đến mức lúc cô rút bức thư từ chiếc phong bì có dán những con tem to và sặc sỡ ra, miệng cô khô lại vì cảm động. Lá thư tuột khỏi tay cô. Cô nhặt lá thư từ dưới sàn nhà lên, hấp tấp đọc:

 

Magda, – lá thư viết – tôi không được all right lắm, vì thế tôi viết thư này cho cô. Nếu tôi được all rirght thì tôi không viết thư cho cô đâu. Tôi đã nếm trải nhiều, hưởng thụ cũng không ít, nhưng điều ấy cũng chẳng cần phải nói vì lúc nào cô cũng biết cái mà cô cần biết và không ai có thể thuyết phục cô được. Bao giờ cô cũng đúng. Cô có biết vì sao tôi bỏ đi không? Vì cô là người không ai có thể chịu đựng được bởi vì những lý thuyết của mình. Lúc nào cô cũng cho là mình đang nắm giữ lẽ phải và không có ai khác ngoài cô. Còn tôi thì tôi muốn sống tự do. Nhưng làm gì có tự do khi tôi luôn sống trong nhục nhã. Điều nàu tôi chưa được giãi bày, vì thế nên tôi mới viết lá thư này. Suốt bảy năm trời tôi không viết, do đó cả lá thư này cũng sẽ chẳng có ý nghĩa gì hết. Nhưng giờ đây tôi không được all right, vì thế nên tôi mới viết. Cô hãy cứ việc sống theo các nguyên lý của mình.

Karel

 

Thoạt tiên Denisa không hiểu gì cả. Cô nghĩ, có lẽ vì cô đọc quá nhanh nên đã không hiểu được ý nghĩa sâu xa và bí hiểm của bức thư. Cô kiểm tra kỹ lá thư, xem nó có đúng là nét chữ của bố cô không. Ở một vài đoạn nét chữ thay đổi, như thể cái bàn viết bị cập kênh và cuối câu, trước các dấu chấm, nét chữ được kết thúc bằng những nét uốn cong cong một cách không cần thiết.

 

Denisa ngắm chiếc phong bì, những con tem Australia và những cái dấu bưu điện không tài nào đọc được. Sau đó cô đọc lại bức thư một lần nữa. Cô thấy buồn vì bố đã không hề nhắc đến cô. Nhưng ngay cả mẹ cô bố cũng không nhắc đến. Bố chỉ toàn nói về mình và về mình mà thôi. Mẹ Denisa chỉ là đối tượng để bố cô kêu ca về những nỗi dằn vặt của mình.

 

Lẽ ra mình không nên đọc lá thư ấy, - cô tự trách móc bản thân. – Trên đời này có lẽ tốt hơn cả là có một vài điều ước không toại nguyện, hoặc nếu có được toại nguyện thì cũng từ từ thôi, đừng đường đột quá. Ý nghĩa của việc đọc lá thư thì cô được biết vào sáng hôm qua, khi mẹ cô la mắng cô vì mấy cái đầu mẩu thuốc lá của người lạ trong phòng. Cơn bực tức của mẹ cô có lẽ đã được tích lũy từ trước, sau một đêm thức trắng ở bệnh viện. Và Denisa bỗng nhận ra rằng, mẹ cô không chỉ trích Lesek, người mẹ không hề quen biết, mà mẹ chỉ trích cái người đàn ông đã bỏ mẹ mà đi, cái con người không hề biết nhận một chút xíu lỗi lầm nào đối với số phận của mẹ. Chính vì ghét bố nên mẹ đã ghét lây sang cả những người đàn ông khác. Denisa bỗng thấy những lời nói của mẹ cô trở nên đáng ghét. Cô không còn giữ được im lặng nữa và lên tiếng cãi lại.

 

-         Mẹ thì bao giờ cũng đúng! – Cô nói và không nhận ra là mình đã trả lời mẹ bằng chính cái câu mà cô đã lấy ra từ bức thư của bố. Và mẹ cô nhận ra ngay vì bà cũng đã thuộc lòng bức thư kia. Bản thân bà cũng đang ấm ức vì không có địa chỉ để trả lời người chồng cũ một cách thẳng thừng và sòng phẳng.

-         - Vậy ra cô đã đọc bức thư ấy rồi, - mẹ la lớn. -  Thì ra cô không chỉ dẫn trai vào phòng ngủ mà còn thọc tay, gí mũi vào ngăn kéo bàn của người khác.

 

Vì không chế ngự được cơn giận dữ, mẹ cô đã thốt ra cả những từ ngữ mà cô chưa từng nghe thấy từ miệng bà. Thật là khó chịu khi thấy mẹ hèn hạ đi vì tức giận và tầm thường đi vì những lời mà bà thốt ra. Giờ thì chẳng khác nào cuộc cãi vã giữa mẹ và bố. Cái mà bà không viết cho chồng được thì bà trút cả vào Denisa.

 

-         Không ai cho tôi là người xấu cả., - mẹ than thở. – Chỉ mỗi bố cô thôi. Cả cô nữa. Phải chăng bởi vì tôi đã hy sinh tất cả cho cô?  Không. Bởi vì cô chẳng khác gì bố cô cả. Nhưng, nói để cô biết, - bà òa lên khóc, - tự tôi, tôi gánh chịu số phận của mình. Có thể là tôi cô đơn giữa mọi người. Nhưng bố cô và cô, các người chẳng ai chịu gánh vác cái gì hết. Chẳng ai chịu gánh vác cái gì hết!

 

Mẹ tiếp tục độc thoại. Bà kể lể mãi về những nhược điểm của bố như tính nhẹ dạ, không chung thủy và vô số những chi tiết phản bội nhỏ nhen khác. Kể cả tính lười biếng. Phải rồi, mẹ đã dùng từ lười biếng. Càng tức giận mẹ càng cất cao giọng và Denisa cảm thấy hơi thở nóng bừng của mẹ dù cô ngồi cách mẹ một khoảng cách khá xa.

 

-         Lần thứ nhất, - mẹ kể lể,- lần thứ nhất ông ta đã lẩn tránh tôi khi tôi nói rằng tôi sắp có con. Bố cô là một người vô trách nhiệm. Nghe nói đến nghĩa vụ là biến mất ngay lập tức. Tôi đã đi truy lùng bố cô và dẫn ông ta về. Nếu không làm quyết liệt như thế thì cô đã chẳng có bố.

 

Denisa lắng nghe mẹ nói và thay vào khuôn mặt người bố mà cô không còn nhớ, trước mắt cô hiện ra vẻ mặt của ông ngoại hồi còn trẻ, một khuôn mặt vui tươi và tự tin. Chính vì thế cô không hiểu nổi mẹ, không hiểu những lời than vãn và oán trách của bà mà nguyên do chỉ vì mấy cái đầu mẩu thuốc lá. Cô thấy mẹ xa lạ và chỉ thấy thương hại mẹ vì bà đã bị bố lừa đảo mà thôi. Lá thư của bố mà cô bí mật đọc được giờ mới bắt đầu có ý nghĩa. Cô được nghe những điều mà bố cô có thể nói ra. Sau đó cô không nghe mẹ kể lể nữa. Dù sao thì chuyện cũng đã xảy ra rồi. Những lời mẹ nói chỉ làm cho Denisa thêm đơn độc, mà trên đời này cái cô sợ nhất là sự cô đơn.

 

Nếu không có những buổi chiều cô đơn thì cô đã không quen biết Lesek. Lesek lúc nào cũng có vẻ tự tin, giống như vẻ tự tin toát ra từ bức ảnh chân dung của ông ngoại. Anh nói với cô rằng anh đang học ở trường đại học kỹ thuật. Anh kể cho cô nghe vô số chuyện thú vị, về các loại động cơ với vẻ tin tưởng chắc chắn rằng cô sẽ thích. Và đúng là cô đã bắt đầu thấy thích thật.

 

- Cô không nghe thấy tôi nói à? – Mẹ hỏi.

- Có ạ, - cô nói dối.

- Rồi đến lúc cô muốn nghe tôi thì đã muộn mất rồi, - mẹ cô kết thúc. Bà đã hoàn toàn kiệt sức và lê bước sang phòng bên để ngủ nốt nửa ngày còn lại sau một đêm thức trắng ở bệnh viện.

 

Bây giờ, khi đêm đã chuyển dần về sáng, trong ánh sáng xanh mờ của chiếc đồng hồ báo thức, Lesek đang nằm ngay bên cạnh cô. Cô nghe thấy tiếng anh thở vào gối. Mẹ cô giờ đang trực ở bệnh viện. Căn nhà im ắng trong giấc ngủ.

 

Denisa vẫn không sao ngủ được.

 

Giờ đây, khi một khoảng thời gian đã trôi qua, cô nghe thấy những lời mẹ nói rành rọt hơn cả khi ngồi đối diện với mẹ. Vì sao bố cô bỏ đi? Vì sợ trách nhiệm hay vì không yêu mẹ cô? Chẳng lẽ cô phải nghe theo những lời răn dạy của mẹ, suốt đời phải giới hạn mình và xa lánh đàn ông? Chẳng lẽ cô lại thừa hưởng từ mẹ tính cứng đầu bướng bỉnh và tính không khoan nhượng, luôn luôn bảo vệ một cách vô ích lẽ phải của mình?

 

Thời gian gần đây cô và Lesek thường hay cãi nhau về những chuyện không đâu. Không đâu trong đêm, khi Lesek ngủ, nhưng ban ngày thì nó lại có ý nghĩa to tát đối với cô. Phải chăng đó là dấu hiệu chỉ ra rằng cô đã thừa hưởng từ mẹ một cái gì đó mà tốt nhất cô không nên thừa hưởng. Phải chăng đó là dấu hiệu báo trước rằng cô sẽ mất Lesek.

 

Cô mò mẫm tìm công tắc đèn bàn. Cô thấy chưa thỏa mãn khi chỉ nghe thấy tiếng anh thở và cảm thấy trên vai trần của mình mái tóc anh, Cô thấy cần phải nhìn anh, xác định vẻ mặt anh để biết chắc chắn rằng mọi chuyện vẫn như cũ, chẳng có gì xảy ra cả. Sau mấy lần sờ soạng mà không thấy công tắc, cô mới nhớ ra là tối hôm qua cô đã chuyển cái đèn ra xa giường. Cô không thích cởi quần áo trong ánh sáng điện. Lesek thì không thể nào hiểu được điều đó. Vì vậy cô phải mang cây đèn ra tận góc phòng và bây giờ nó vẫn còn ở đó.

 

Denisa thận trọng trở dậy bật đèn. Qua cái tán loe, ánh điện tỏa sáng như một làn sương màu hồng dịu. Denisa quay trở lại giường, kéo chăn đắp lên người. Cô quan sát vẻ mặt Lesek. Anh nằm nghiêng, má bên phải đặt trên gối. Trong bóng đêm cô nghe rõ tiếng anh thở, thế mà bây giờ cô thấy hình như anh không còn thở nữa. Anh nằm không động đậy như thể đã chết. Cô hoảng hồn. Đúng lúc đó Lesek cựa mình và đụng mặt vào cánh tay cô đang đưa ra thử cản hơi thở của anh. Lesek lim dim mắt, trán cau lại.

 

-         Có chuyện gì thế? Đến giờ rồi à? – Anh thốt lên.

 

Cô xấu hổ.

 

-         Chẳng có chuyện gì cả. Anh cứ đi ngủ đi. Em tắt đèn ngay bây giờ.

 

Cô tắt đèn và nằm trằn trọc một lúc. Cô vẫn không ngủ được. Cô lại linh cảm thấy rằng cô sẽ mất Lesek. Cô lắng nghe tiếng thở của anh. Nhưng vì không nghe thấy gì nên cô lại đi về phía cây đèn. Cô bật điện và chưa kịp trở lại giường đã thấy Lesek ngồi dậy.

 

-         Em làm trò gì vậy? – anh hỏi. – Em làm sao thế?

-         Chẳng sao cả.

-         Có. Em làm sao ấy.

 

Đúng lúc ấy một câu hỏi lóe lên trong đầu cô. Sau này, khi nhớ lại, cô phải tự thừa nhận rằng, nếu không có trận cãi nhau với mẹ vừa qua thì cô không thể nảy ra ý nghĩ ấy giữa đêm khuya, trong ánh sáng màu hồng dịu của căn phòng.

 

-         Nhỡ em có con thì sao? – cô hỏi.

-         Tất nhiên đó là điều vô lý.

-         Đấy là anh nghĩ thế.

-         Vô lý. Con nào?

-         Con chúng ta chứ còn con nào! – Cô nói.

 

Anh thả hai chân xuống sàn nhà. Khi ngủ Lesek mặc quần đùi và cởi trần, cái lưng trắng của anh lấm tấm tàn hương. Anh nhún vai mấy lần liền.

 

-         Nếu chuyện đó xảy ra thì tôi chẳng hề có lỗi gì hết,

-         Vậy ai có lỗi? – Cô hỏi.

 

Anh với cái quần vắt trên ghế, lấy ra bao thuốc lá và châm thuốc hút. Cô thận trọng cầm lấy que diêm đã tắt từ tay anh.

 

-         Chuyện đã xảy ra rồi. Anh phải lấy em làm vợ thôi.

-         Cưới ư?

-         Vâng.

-         Chà! – Anh thốt lên.

 

Cô ngạc nhiên vì thấy Lesek bỗng nhiên trở nên lung túng, thiếu tự tin. Nhưng rồi anh vẫn có cách giải quyết.

 

-         Cô nghe đây. – Anh vừa nói vừa bóp vụn điếu thuốc lá và bỏ nó vào cái gạt tàn. – Xin cô hãy loại tôi ra khỏi màn kịch này.

-         Anh…

-         Khi một đứa con gái đã dẫn một thằng đàn ông vào phòng ngủ của mình vào ban đêm…

-         Anh…

 

Anh chùn bước trước ánh mắt cô, với tay lấy chiếc áo sơ mi. Anh vội vã, luống cuống mặc quần áo, trong khi miệng vẫn nói liến thoắng.

 

-         Khi một đứa con gái đã dẫn một thằng đàn ông vào phòng ngủ …nó có thể dẫn vào phòng cả những thằng khác…Khi một đứa con gái đã…

-         Anh câm mồm ngay! – Cô hét lên.

 

Anh đưa tay chỉ vào tường, như muốn báo cho cô biết: hàng xóm.

 

Cô mặc bộ áo ngủ vào người và mang chìa khóa ra trước. Vừa đi Lesek vừa xỏ giày.

 

Cô mở cửa nhà. Trời đã hửng sáng. Vầng trăng trên bầu trời như kỷ niệm của đêm qua còn lưu lại.

 

Khi quay trở về phòng, cô bước thẳng đến phòng tắm và dội người rất lâu bằng nước lạnh. Sau đó cô lấy vỏ chăn, vỏ gối cũ ra và thay bằng những thứ mới. Cô mở cửa sổ thông khí trong phòng. Cô rửa thật kỹ cái gạt tàn. Vậy mà cô vẫn chưa thấy thỏa mãn niềm khao khát muốn cho mọi thứ thật sạch sẽ.

 

Cô để lên bàn tập câu hỏi chuẩn bị thi tốt nghiệp môn địa lý. Đồng hồ báo thức chỉ bốn giờ năm mươi ba phút. Cô nhìn chăm chú vào trang giấy nhưng phía sau những dòng chữ là khuôn mặt Lesek đang nhìn cô.

 

Mình căm thù anh ta. Cô nghĩ thầm. Nhưng cũng chẳng biết cô căm thù Lesek hay căm thù chính bản thân mình hơn. Nếu không có anh ta cô đã chẳng phải trải qua thử thách này. Hoặc nếu không có mẹ cô thì cô cũng chẳng nghĩ ra trò thử thách hay kiểm tra nào hết.

 

Nhưng càng nghĩ cô càng cảm thấy tiếc vì tất cả những gì vừa xảy ra chỉ như một kỳ thi hay kiểm tra mà thôi. Rồi cô nghĩ đến bố, người đã sống với mẹ cô ít nhất cũng năm năm trời. Và năm năm bỗng hiện ra trước mắt cô như một quãng thời gian tuyệt đẹp vô cùng tận.

 

 

Lương Duyên Tâm dịch

 

 

(Rút từ tập truyện ngắn Thế giới tràn đầy tình yêu của nhà văn Séc Eduard Petiska, Lương Duyên Tâm dịch từ nguyên bản, Nhà xuất bản Văn học, năm 1998)

 

Thursday, June 13, 2013

Bài thơ Một lý do nữa khiến tôi không giữ súng trong nhà của nhà thơ Mỹ Billy Colins, Lương Duyên Tâm dịch


Billy Collins

 

Một lý do nữa khiến tôi không giữ súng trong nhà

 

Con chó nhà hàng xóm sủa không ngừng nghỉ

Nó sủa giọng cao nhịp điệu du dương

Cứ mỗi lần chủ rời nhà là nó sủa

 

Con chó nhà hàng xóm sủa không ngừng nghỉ

Tôi đã đóng tất cả các cửa sổ trong nhà

Rồi bật băng nhạc Beethoven hết cỡ

Mà vẫn nghe tiếng sủa trong tiếng nhạc ầm vang

 

Gâu, gâu, gâu… nó sủa không ngừng nghỉ

 

Rồi tôi thấy con chó ngồi trong dàn nhạc

Đầu ngửng cao đầy vẻ tự tin

Như thể Beethoven đã đưa tiếng chó sủa vào bản nhạc

 

Khi nhạc ngừng con chó kia vẫn sủa

Nó ngồi trong khu vực kèn oboa

Mắt nó dán vào ông nhạc trưởng

Nài xin ông giơ chiếc gậy chỉ huy

 

Các nhạc công với dáng vẻ trân trọng

Lặng im nghe con chó sủa solo

Đoạn nhạc kết không bao giờ chấm dứt

Beethoven thành thiên tài cách tân

 

                                       Lương Duyên Tâm dịch

 

Saturday, June 8, 2013

Bài thơ Im lặng của nhà thơ Mỹ Billy Colins, Lương Duyên Tâm dịch


Billy Collins

 

Im lặng

 

Có sự im lặng bất ngờ từ đám đông

khi vận động viên trên sân ngừng di chuyển

và có sự im lặng của hoa phong lan

 

Sự im lặng của chiếc lọ đang rơi

trước khi nó đập xuống sàn nhà

sự im lặng của cái roi không quất vào đứa trẻ

 

Sự im lặng của cái chén và của nước trong đó

sự im lặng của mặt trăng

và sự im lặng của ban ngày cách xa tiếng gầm rú của mặt trời

 

Sự im lặng khi anh ôm em vào lòng

sự im lặng của cái cửa sổ phía trên chúng ta

sự im lặng khi em đứng lên và quay đi

 

Và đó là sự im lặng của buổi sáng

mà anh đã phá vỡ bằng cây bút của mình

sự im lặng chất chồng hằng đêm

giống như tuyết rơi trong bóng tối ngôi nhà

sự im lặng khi anh viết một từ

và sự im lặng này còn tệ hơn.

 

                               Lương Duyên Tâm dịch

 

 

                   

 

Bài thơ Giới thiệu thơ của nhà thơ Mỹ Billy Colins, Lương Duyên Tâm dịch


Billy Collins

 

Giới thiệu thơ

 

Tôi yêu cầu họ cầm một bài thơ

giơ nó ra ánh sáng

như chiếu hình

hoặc áp tai vào cái tổ ong của nó.

 

Tôi bảo họ thả một con chuột vào thơ

rồi quan sát nó tìm đường ra khỏi đó

hoặc đi vào căn phòng thơ

sờ soạng các bức tường tìm công tắc đèn.

 

Tôi muốn họ trượt trên bề mặt của bài thơ như dùng ván trượt trên mặt nước

rồi vẫy chào tên tác giả trên bờ.

 

Nhưng tất cả những gì họ muốn làm

là trói thơ vào ghế bằng dây thừng

rồi tra tấn buộc nó phải thú tội.

 

Họ đánh nó bằng ống nước cao su

để tìm xem nó muốn nói gì.

 

                                          Lương Duyên Tâm dịch

Bài thơ Đồ án của nhà thơ Mỹ Billy Colins, Lương Duyên Tâm dịch


Billy Cillins

 

Đồ án

 

Tôi đổ một lớp muối lên mặt bàn

rồi dùng ngón tay vẽ một vòng tròn.

Đó là vòng đời

tôi nói một mình.

Đó là vòng tròn định mệnh

là vòng Bắc cực

là cung đường Kerry

là bông hồng trắng ở Tralec.

Tôi nói với các linh hồn của gia đình tôi,

với những người cha đã khuất,

với bà cô bị chết đuối,

với những người anh người chị chưa sinh,

với những đứa con chưa sinh.

Đó là mặt trời với những tia lấp lánh

và mặt trăng cay đắng.

Đó là vòng tròn tuyệt đối của hình học.

Tôi nói với vết nứt trên tường

với con chim bay ngang qua cửa sổ.

Đó là vòng tròn tôi vừa phát minh

quay quanh cuộc đời còn lại của tôi.

Tôi nói

khi chạm ngón tay mình vào lưỡi.

 

                                Lương Duyên Tâm dịch

 

 

 

Bài thơ Nhật Bản của nhà thơ Mỹ Billy Colins, Lương Duyên Tâm dịch


Nhật Bản 

 

Hôm nay anh giết thời gian

Bằng cách đọc những bài thơ haiku

Từng từ từng từ một.

 

Anh cảm thấy như thể đang ăn

Những quả nho hoàn hảo nhỏ bé giống nhau

Từng quả, từng quả một.

 

Anh đi dọc nhà và đọc thơ.

Để cho những con chữ rơi xuống

Qua bầu không khí từng căn phòng.

 

Anh đọc thơ bên sự im lặng to lớn của chiếc đàn dương cầm.

Anh đọc trước bức tranh vẽ biển

Anh đánh nhịp lên cái giá sách trống.

Anh lắng nghe mình đọc thơ

Rồi anh đọc mà không lắng nghe

Sau đó anh lắng nghe mà không đọc.

 

 

 

Và khi con chó ngước nhìn anh

Anh quỳ lên sàn nhà

Đọc thầm vào từng cái tai dài màu trắng của nó.

 

Đó là câu thơ nói về cái chuông chùa

Với con bướm đêm ngủ trên mặt chuông

Và bất cứ khi nào đọc câu thơ ấy

Anh lại cảm thấy áp lực đau khổ của con bướm

Đè lên bề mặt cái chuông.

 

Khi anh đọc thơ cạnh cửa sổ

Cái chuông là thế giới

Còn anh là con bướm đậu ở đó.

 

Khi anh đọc bên cái gương

Anh là cái chuông nặng

Còn con bướm là thế giới với đôi cánh mỏng như giấy.

 

Sau đó, khi anh đọc câu thơ ấy cho em nghe trong bóng tối

Em là cái chuông

Và anh rung chuông em,

 

Rồi con bướm bay đi

Nó chuyển động như chiếc bản lề trong không khí trên chiếc giường của chúng ta.

 

Lương Duyên Tâm dịch